Địa chỉ: phòng 405 – Số 254 Nguyễn Văn Linh - Đà Nẵng
Điện thoại : (+84) 236.3650403 (405)
Email: lyluanchinhtri@duytan.edu.vn
Trưởng khoa: TS. Nguyễn Văn Dương
1. Lễ Chol Chnam Thmey đây là Tết cổ truyền của dân tộc Khmer được diễn ra tại chùa và các Phum Srók. Cụm từ Chol Chnam Thmey nghĩa là Mừng năm mới. Hằng năm cứ vào giữa tháng tư dương lịch, theo lịch Khmer là Khe Chet (tháng 3 ÂL), toàn thể dân Khmer Nam bộ dù đi làm ăn nơi đâu cũng quay về mái ấm gia đình thăm viếng ông bà cha mẹ, trang trí nhà cửa và cùng nhau mua sắm lễ vật nhang đèn và hoa quả vào chùa làm lễ đón năm mới.
2. Lễ Sene Đol-Ta đây là lễ cúng ông bà, gần giống như lễ Vu Lan báo hiếu của người Kinh. Hằng năm cứ vào tháng 9 dương lịch, theo lịch Khmer là Khe Bhatrobut (tháng 8 ÂL), ở đây trong văn hóa dân tộc Khmer Lễ Sene Đol-Ta nhằm nói lên ý nghĩa hồi hướng phước báu (lễ xá tội vong nhân). Trong bổn phận làm con mà đức Phật đã dạy là phải biết đền ơn báo hiếu phụng dưỡng cha mẹ, làm phước hồi hướng đến ông bà cha mẹ khi người đã quá vãng (có Lễ hội đua bò ở tỉnh An Giang).
3. Lễ Ok-Om-Bok là một trong ba lễ hội truyền thống trong năm của dân tộc Khmer Nam bộ. Hằng năm cứ vào đầu tháng 12 dương lịch tức theo lịch Khmer là Khe Katdâk (Rằm tháng 10 ÂL) nhằm tưởng nhớ và tạ ơn mặt trăng vốn được họ coi như một vị thần vận hành mùa màng trong năm. Lễ vật cúng chủ yếu là cốm dẹp nên gọi là Ok-Om-Bok có nghĩa là đút cốm dẹp và các loại củ, trái cây,. Khi nhắc đến lễ Ok-Om-Bok thì chúng ta không thể nào quên lễ hội tưng bừng nhộn nhịp là Lễ đua ghe ngo, thả đèn nước, lòng đèn gió.
Cũng trong thời gian trước ngày lễ Ok-om-bok, (từ ngày 16 tháng 9 ÂL đến Rằm tháng 10 ÂL). Các chùa Nam tông Khmer đều chọn lấy một ngày trong vòng 29 ngày để tổ chức Lễ dâng y Kathina truyền thông Phật giáo. Tất nhiên lễ này cũng rất long trọng, bởi nhân dịp này các chàng trai và cô gái Khmer ăn mặc đẹp đẽ với bộ trang phục dân tộc truyền thống tay cầm cây bông làm bằng sợi len, bằng giấy, hoặc đóa hoa tươi, kết thành đoàn theo người chủ lễ dâng y vào chùa nhiểu Phật ba vòng chánh điện và cúng dường đến chư Tăng, số tiền có được từ cây bông ấy được dùng để xây dựng hoặc tu sửa chùa.
Lễ hội dân tộc là những ngày lễ bắt nguồn từ cuộc sống lao động của dân chúng. Các lễ hội ấy đã có từ ngàn xưa trước khi Phật giáo chưa thâm nhập. Nhưng qua quá trình phát triển những nghi lễ truyền thống ấy nay được pha lẫn nhiều yếu tố triết lý Phật giáo. Song ở đây cũng tồn tại khá rõ nét nguồn gốc nghề nông nghiệp của cư dân chuyên canh lúa nước, đó là đặc điểm chung của lễ Chol Chnam Thmey, lễ Sene Dol-Ta, lễ Ok-Om-Bok.
Khi nói đến các lễ hội dân tộc thì chúng tôi không thể lược qua chùa Khmer, ngoài chức năng tôn giáo, chùa còn gồm cả chức năng giáo dục, chức năng giao lưu văn hóa phong tục mà đồng bào Khmer đã “ký gửi” cả tâm hồn, tài sản và cả công sức của mình vào đó. Qua đó, ngôi chùa Khmer còn có cách quản lý khá chặt chẽ là không chỉ có vị trụ trì mà còn có ban quản trị. Nên mọi việc sửa chữa chùa chiền đều phải có cuộc họp thống nhất ý kiến chung giữa Trụ trì và Ban quản trị, vào những dịp lễ hội truyền thống dân tộc Trụ trì và Ban quản trị đứng ra hướng dẫn tổ chức lễ. Chùa Khmer không những là nơi diễn ra các sinh hoạt tôn giáo xã hội mà còn là nơi tồn trữ và phổ biến những Đại tạng kinh, giáo lý, sách báo, tác phẩm văn hóa nghệ thuật Khmer, chùa còn là trường đào tạo nữa. Nơi đây, có các lớp giáo lý Pali - Vinaya, cho Tăng sinh và cả lớp dạy chữ Khmer cho con em dân tộc. Thầy dạy lớp giáo lý Pali - Vinaya thường là các sư sãi được Hội ĐKSSYN các cấp đào tạo. Mỗi ngôi chùa Khmer là một Trung tâm sinh hoạt văn hóa giáo dục xã hội của địa phương. Nơi đây, người dân Khmer được lớn lên trong nếp sống đạo đức Phật giáo. Các nhà sư vừa là thầy hướng đạo vừa là thầy dạy chữ nghĩa đạo đức cho dân chúng. Nên tín đồ Phật tử rất mực ngưỡng mộ và tôn kính Nhà sư. Cho nên chỉ có các sư sãi trong chùa là những người được học nhiều chữ nghĩa và mở lớp đào tạo giáo lý để duy trì đạo đức, văn hóa, Phật pháp. Với hoài bảo và tâm quyết bảo tồn văn hóa dân tộc mình mà các lớp học được duy trì từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Kiên trúc chùa Khmer được cấu tạo bởi một số nét mang đặc tính gần gũi với thiên nhiên và đặc trưng là có nhiều cây cổ thụ như sao, dầu được trồng thẳng hàng luôn được bảo dưỡng tươi tốt. Vì thế cảnh quang ngôi chùa đã được xem như danh lam thắng cảnh, nơi để đồng bào xa gần hành hưong thưởng ngoạn. Với bản tính chất phát, thật thà, đôn hậu vốn có ở người Khmer điều đó đã chứng minh ở triết lý sống của Phật giáo là: từ - bi - hỷ - xã, tinh thần vị tha và càng tin tưởng vào quy luật nhân quả, nghiệp báo. Chính sự thích hợp đó đã tạo thế đứng vững chắc cho Phật giáo truyền thống Theravada tồn tại trong đồng bào Khmer Nam bộ. Thế là, ngôi chùa đã trở thành trường học, trung tâm văn hóa giáo dục đào tạo và diển ra nhiều hoạt động nhân văn xã hội của dân tộc Khmer.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: