Địa chỉ: phòng 405 – Số 254 Nguyễn Văn Linh - Đà Nẵng
Điện thoại : (+84) 236.3650403 (405)
Email: lyluanchinhtri@duytan.edu.vn
Trưởng khoa: TS. Nguyễn Văn Dương
KINH TẾ- XÃ HỘI NHẬT BẢN THỜI KỲ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II
Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc vào ngày 02/09/1945, Nhật Bản hoang tàn bởi bom đạn, phần đông dân số rơi vào cảnh đói ăn trầm trọng. 30% dân số không có nhà ở, 6 triệu người lính và dân thường từ khắp các vùng chiến sự ở Thái Bình Dương quay trở về Nhật. 66 thành phố chính bị tàn phá nặng nề, cuộc sống ở khu vực nông thôn chỉ còn tương đương 65% so với trước chiến tranh. Tại Tokyo, 65% các khu vực dân cư bị phá hủy hoàn toàn, con số này tại các thành phố Osaka, Nagoya (thành phố lớn thứ 2 và thứ 3 tại Nhật ở thời điểm đó) lên đến 57% và 89%.
Ngay trong những năm đầu sau chiến tranh, dưới sự kiểm soát của quan đội Mỹ, một số cải cách lớn về kinh tế xã hội ở Nhật Bản được thực hiện tạo điều kiện cho Nhật khôi phục kinh tế và chuyển từ nhà nước quân sự sang nhà nước hướng phát triển kinh tế.
Tuy nhiên truowcs năm 1948 việc khôi phục kinh tế diễn ra chậm chạp và khó khăn. Một mặt vì nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, thiếu vốn, nguyên liệu; mặt khác, Mỹ đã thực thi một chính sách cứng rắn đối với Nhật Bản. Song từ tháng 10-1948, lập trường của Mỹ đối với Nhật đã có sự thay đổi căn bản. Nhật Bản đã được Mỹ nâng đỡ thành đồng minh đắt lực của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở châu Á- Thái Bình Dương. Kể từ tháng 10- 1948 trở đi, công cuộc khôi phục kinh tế của Nhật Bản diễn ra ngày càng thuận lợi. Đến năm 1951, các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của Nhật như tổng sản phẩm quốc dân, sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất nhập khẩu thực tế đã bằng và vượt xa so với trước chiến tranh
Người có công lớn trong việc xây dựng nước Nhật sau chiến tranh thế giới thứ hai là Douglas MacArthur. Ông chịu trách nhiệm cao nhất trong việc cải tổ và xây dựng lại nước Nhật sau chiến tranh. Ngay từ ban đầu, bất chấp sự phản đối từ đại diện các nước đồng minh, Douglas MacArthur từ chối trừng phạt Nhật hoàng Hirohito. Ông nghiên cứu lịch sử của những người thắng cuộc trước đó bao gồm Alexander, Napoleon, Hitler và đi đến kết luận rằng tất cả hoạt động chiếm đóng của họ đã thất bại bởi họ lấy máu để trả thù máu. Với kinh nghiệm tiếp quản hoạt động cải tổ đất nước ở Philippines và vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa châu Á, ông đã khéo léo đưa Nhật hoàng vào vị trí hỗ trợ tốt nhất cho tham vọng mang dân chủ đến nước Nhật. Và chỉ trong khoảng thời gian từ năm 1945 đến năm 1952, những cải cách mà Douglas MacArthur thực hiện đã mang lại nhiều bước tiến cho nước Nhật. Ảnh hưởng tích cực từ những cải cách đó vẫn tiếp tục diễn ra trong xã hội Nhật hiện đại, ở thời điểm 70 năm sau.
Những điều chỉnh lớn trong cải tổ và xây dựng lại nước Nhật
+ Về Chính trị
Chủ quyền đất nước thuộc về quốc dân chứ không phải Thiên hoàng. Thiên hoàng là biểu tượng cho sự đoàn kết và văn hóa Nhật, không mang quyền lực chính trị thực tế, chỉ được thực hiện những hoạt động liên quan đến việc nước theo quy định của bản Hiến pháp và không có quyền lực liên quan tới chính phủ. Quốc hội Nhật là cơ quan chính trị có quyền lực cao nhất, thành viên quốc hội là những người được bầu cử tự do. Phụ nữ được hưởng thêm nhiều quyền mới, trong đó có quyền bầu cử, và bình đẳng giới được nâng lên mức cao nhất so với tất cả các bản hiến pháp trước đó. Chính quyền các địa phương được củng cố để tạo điều kiện cho mọi người dân tham gia vào các sinh hoạt chính trị. Công dân có thêm nhiều quyền dân sự mới, trong đó bao gồm quyền tự do ngôn luận, quyền lực của cảnh sát được giảm bớt và được kiểm soát chặt chẽ. Cuối cùng, giải tán quân đội theo điều 9 của Hiến pháp, Nhật không được phép duy trì quân đội hoặc tham gia vào bất kỳ cuộc chiến nào.
* Về đối ngoại
Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, chính sách đối ngoại của Nhật Bản được bắt đầu với học thuyết Yoshida, theo đó Nhật Bản hoàn toàn dựa vào Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ để phòng thủ đất nước và tập trung phát triển kinh tế.
Đặc trưng của chính sách đối ngoại Nhật Bản giai đoạn thập kỷ 60 là chính sách ngoại giao kinh tế nhằm phục vụ cho nhu cầu đuổi kịp và vượt các nước phát triển khác. Mục tiêu này đã đạt được vào cuối những năm 60 khi Nhật Bản trở thành cường quốc thứ 2 về kinh tế. Đầu thập kỷ 70, Nhật đóng vai trò quốc tế quan trọng hơn và học thuyết Fukuda ra đời năm 1977 đã đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong chính sách đối ngoại của Nhật, trước hết là đối với khu vực Đông Nam Á. Thập kỷ 80 tiếp tục mang tính chủ động hơn, nhất là dưới thời kỳ Thủ tướng Nakasone. Từ năm 1985, nhờ việc nâng giá đồng yên, Nhật tăng cường ảnh hưởng kinh tế trong khu vực châu Á thông qua mô hình đàn sếu bay với ý đồ trở thành đầu tàu cho sự phát triển kinh tế thế giới. Trong thập kỷ 90 quan hệ với Mỹ được củng cố thông qua việc ký tuyên bố chung về “An ninh Nhật - Mỹ trong thế kỷ 21” vào năm 1996 và đưa ra phương châm phòng thủ mới Nhật - Mỹ vào năm 1997. Bước vào thế kỷ 21, với những diễn biến phức tạp của cuộc chiến tranh chống khủng bố và tình hình vũ khí hạt nhân của Triều Tiên, Nhật Bản tiếp tục chính sách ủng hộ mạnh mẽ Mỹ và tăng cường khả năng tự vệ của mình. Nhật Bản là một đồng minh quan trọng của Mỹ. Nhờ là đồng minh của Mỹ, Nhật được hưởng rất nhiều ưu đãi, được tiếp cận với các thị trường toàn cầu và thúc đẩy tính cạnh tranh trong thị trường tiêu dùng Mỹ. Mỹ cho phép Nhật Bản trở thành một thành viên sáng lập của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), một thành viên ban đầu của Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) và là thành viên của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB).
* Về Kinh tế
Trước Chiến tranh thế giới thứ 2, Nhật đã là cường quốc kinh tế hàng đầu châu Á. Phần lớn các tập đoàn nổi tiếng của Nhật đã được thành lập và phát triển mạnh mẽ từ trước Chiến tranh thế giới thứ 2. Những cải tổ của người Mỹ giúp mang đến môi trường kinh tế linh hoạt, nhạy bén hơn, người nông dân được vươn lên làm chủ tư liệu sản xuất của mình, những thay đổi được đưa ra theo hướng tạo ra môi trường kinh tế dân chủ hơn. Trước Chiến tranh thế giới, người nông dân không được làm chủ mảnh đất mình canh tác mà phải thuê đất từ địa chủ, họ cũng chỉ được hưởng lợi 50% lợi tức mà họ tạo ra được từ mảnh đất đó. Cuộc cải cách ruộng đất đã lấy đất từ địa chủ và phân phối lại cho nông dân, từ đó người nông dân được sở hữu đất nông nghiệp. Liên minh chiến lược quốc tế đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền kinh tế. Năm 1951, Nhật Bản đã ký Hiệp ước San Francisco và các hiệp ước an ninh với Hoa Kỳ. Trong hiệp ước, Nhật được phép tham gia vào các hiệp định an ninh tập thể và tự bảo vệ. Hiệp ước Tương trợ An ninh năm 1954 bước đầu tham gia viện trợ quân sự đã giúp Nhật Bản vốn, nguyên liệu và các dịch vụ bảo vệ thiết yếu của quốc gia.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: