Địa chỉ : P.203 - K7/25 Quang Trung - Đà Nẵng
Điện thoại : 05113 827 111 ( 203)
Từ góc độ tiểu hệ thống thể chế, HTCT nước ta bao gồm: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số tổ chức chính trị - xã hội... Các bộ phận này được kết nối với nhau theo những quan hệ, những cơ chế và nguyên tắc vận hành nhất định, trong một môi trường văn hóa chính trị đặc thù. Chính vì vậy HTCT của nước ta có đặc điểm như sau:
Thứ nhất: Là hình thức quá độ từ HTCT dân chủ nhân dân tiến lên HTCT xã hội chủ nghĩa. Sự quá độ này không chỉ do những điều kiện lịch sử cụ thể và yếu tố “địa chính trị” quy định, hơn nữa còn trực tiếp bị quy định bởi tính quá độ chính trị của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Chính vì vậy, HTCT Việt Nam vừa mang những đặc trưng của HTCT dân chủ nhân dân vừa mang những đặc trưng của HTCT XHCN. Từ đặc điểm này để nhận thấy, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện HTCT phải tính đến việc sử dụng những giải pháp, hình thức, những bước đi quá độ phù hợp.
Trong suốt 26 năm đổi mới, về cơ bản HTCT Việt Nam đã từng bước tương thích với một nền kinh tế đang chuyển đổi. Nhiệm vụ cơ bản của HTCT trong nền kinh tế này là giữ vững ổn định chính trị một cách tích cực để tiến hành các cải cách, chuyển hóa nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; đồng thời, từng bước thực hiện dân chủ hóa xã hội, tạo động lực cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Thứ hai: HTCT Việt Nam là HTCT nhất nguyên, dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tính nhất nguyên của HTCT Việt Nam được quy định bởi, trước hết, nó được xây dựng và hoạt động trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; mục tiêu của nó không ngoài việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân; hai là, sự lãnh đạo duy nhất của Đảng còn được quy định bởi bản chất cách mạng và khoa học của Đảng, một đảng và ở Việt Nam chỉ duy có Đảng Cộng sản mới là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân và của cả dân tộc; bởi, thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhân dân Việt Nam luôn thừa nhận và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng.
Như chúng ta đều biết: trước và sau năm 30 của thế kỷ XX, ở Việt Nam đã từng tồn tại nhiều tổ chức đảng đối lập: Đảng lập hiến của Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long (1926); Đảng Thanh niên lao vọng ở Nam Kỳ (1926); Đảng Việt Nam quốc dân do Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Đoàn Trần Nghiệp (1927). Sau năm 1940 có Đảng Đại Việt thân Nhật của Nguyễn Trường Tam, Việt Nam Quốc dân đảng của Vũ Hồng Khanh (Việt quốc), Việt Nam cách mạng đồng minh (Việt cách) của Nguyễn Hải Thần... Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập. Trong bộ máy nhà nước, ngoài Đảng cộng sản còn hai đảng khác là đảng Việt quốc và Việt cách. Tuy nhiên, khi bước vào thực hiện sứ mệnh của dân tộc là toàn quốc kháng chiến (12/1946), thì hai đảng Việt quốc và Việt cách đã xét thấy không làm được sứ mệnh này nên tự giải tán, chỉ còn lại duy nhất Đảng Cộng sản, với bản lĩnh, năng lực và phẩm chất riêng của mình đã trụ vững trong lòng dân tộc và được dân tộc thừa nhận, suy tôn là người lãnh đạo duy nhất.
Ngày nay, với thắng lợi của sự nghiệp đổi, lần nữa khẳng định sự thừa nhận của dân tộc đối với sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng độc quyền lãnh đạo một cách chính đáng, hợp hiến, hợp pháp.
Thật ra, khi thực hành chế độ một Đảng lãnh đạo cũng không ít những luận điệu xuyên tạc đầy tính ác ý: “độc đảng” thì “độc tài”, “độc đoán”, “độc quyền”, mất dân chủ... Nhưng trên thực tế hoàn toàn trái ngược với sự suy diễn võ đoán đó. Hiến pháp 1992, điều 4 đã ghi rõ: “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Trong thực tiễn, Đảng lãnh đạo cách mạng bằng cương lĩnh, chiến lược, nghị quyết thể hiện ý chí, nguyện vọng của toàn dân, đặt lợi ích của đất nước, của dân tộc lên trên hết. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quốc hội do dân bầu ra, là cơ quan quyền lực cao nhất. Quốc hội bầu chính phủ điều hành mọi công việc của đất nước trên cơ sở hiến pháp, pháp luật... Điều đó, một lần nữa chứng tỏ tính chính đáng của sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ ba, HTCT mang tính nhân dân rộng rãi. Hiến pháp của nước ta ghi rõ: “ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức”. Tính nhân dân rộng rãi của HTCT thể hiện chủ yếu ở mục tiêu, phương thức, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTCT.
- Nhân dân là gốc của quyền lực, là chủ của xã hội. Tổ chức của Nhà nước do nhân dân lập ra, hoạt động của các cơ quan và công chức nhà nước là đầy tớ của dân chịu sự giám sát tối cao và thường xuyên của dân.
- HTCT bằng mọi hình thức khác nhau để tập hợp, tổ chức mọi người dân thuộc các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, nghề nghiệp, chính kiến…ở trong và ngoài nước để tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ tư, HTCT nước ta được tổ chức chặt chẽ, có sự phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của mỗi tổ chức và cơ chế hoạt động của từng tổ chức cũng như của cả hệ thống. HTCT ở Việt Nam được tổ chức hết sức rộng rãi, chặt chẽ, các mối quan hệ ngày càng được xác định rõ ràng hơn. Trong phạm vi hoạt động của mình, cùng một lúc mỗi một thành viên phải thực hiện các quan hệ có tính chất khác nhau với các đối tượng khác nhau của HTCT: quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn; quan hệ phối hợp, cộng tác, liên kết. Tất cả tạo thành một mạng lưới chằng chịt, gắn kết chặt chẽ
Thứ năm, HTCT nước ta có thuộc tính bản chất là sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính dân tộc. Ở nước ta, vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc luôn gắn bó, quyện chặt lẫn nhau. Nghiên cứu quá trình dân tộc và quá trình chính trị của nước ta sẽ đi tới khẳng định sự nổi trội của tính dân tộc trong suốt lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và gĩư nước. Nhận rõ đặc trưng về sự nổi trội của tính dân tộc không phải là coi nhẹ tính giai cấp, mà là khắc phục quan niệm tuyệt đối hoá giai cấp để thấy rõ sự thống nhất giữa tính dân tộc và tính giai cấp trong hoàn cảnh đặc thù của nước ta.
Những đặc điểm trên vừa quy định kết cấu, tổ chức, vận hành và các mối quan hệ vừa quy định tính thống nhất của HTCT duy nhất trong cả nước. Các khái niệm trung ương - địa phương - cơ sở chỉ là những cấp độ khác nhau của HTCT nói chung chứ không phải là có ba HTCT: HTCT trung ương, HTCT địa phương và HTCT cơ sở. Khẳng định điều này có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Với cách hiểu HTCT nói chung có tính toàn vẹn, duy nhất, thống nhất như vậy sẽ là tiền đề, cơ sở để hiểu đúng vai trò, vị trí của HTCT ở cơ sở - cấp cơ sở của HTCT nói chung
» Các tin khác: