Địa chỉ : P.203 - K7/25 Quang Trung - Đà Nẵng
Điện thoại : 05113 827 111 ( 203)
Bối cảnh kinh tế toàn cầu đã trải qua những thay đổi sâu sắc kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nền kinh tế thế giới bước vào một thế giới mới, bình thường và có những thách thức cần phải được quản lý. Thật không may, hệ thống quản trị toàn cầu đã không theo kịp quy mô và sự phức tạp của những thách thức này.
Kiến trúc sau chiến tranh của nền kinh tế thế giới là một phần lớn của Hoa Kỳ, với hy vọng tái thiết một hệ thống kinh tế quốc tế tự do. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới và Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) đã đặt nền tảng cho trật tự kinh tế toàn cầu sau chiến tranh, và dòng chảy thương mại và vốn quốc tế dần dần bắt đầu trở lại. Để củng cố quyền lực tối cao của mình trong bóng tối của Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã hỗ trợ sự phát triển kinh tế của các đồng minh thông qua viện trợ, như Kế hoạch Marshall nhằm vào Tây Âu và tài trợ khổng lồ cho Nhật Bản trong Chiến tranh Triều Tiên. Tuy nhiên, vào những năm 1970, quyền bá chủ của Hoa Kỳ bắt đầu suy yếu dần, khi một loạt các nước đang phát triển phát sinh từ Phong trào Giải phóng Quốc gia sau chiến tranh đổ xô đến Liên Hợp Quốc, thúc giục cái gọi là trật tự kinh tế quốc tế mới sẽ được ưu ái hơn ở Thế giới thứ ba các nước. Hơn nữa, sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods năm 1973 có nghĩa là Hoa Kỳ phải phụ thuộc nhiều hơn vào các cơ chế điều phối chính sách kinh tế vĩ mô với các nước phát triển khác để duy trì trật tự tiền tệ quốc tế.
Sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 19971/1998 đã làm dấy lên sự nghi ngờ sâu rộng về cách thức quản trị của IMF và sự đồng thuận của Washington Washington đằng sau nó, và thúc đẩy nhận thức về hợp tác khu vực trên khắp châu Á. Sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng thế chấp dưới chuẩn năm 2007 tại Hoa Kỳ, cũng như cuộc khủng hoảng nợ có chủ quyền năm 2010 ở châu Âu, đã thay đổi niềm tin từ lâu rằng các nền kinh tế phát triển được miễn dịch khỏi các cuộc khủng hoảng tài chính.Khi hệ thống kinh tế quốc tế ngày càng không có khả năng đối phó với việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý các cuộc khủng hoảng do làn sóng toàn cầu hóa, các nền tảng quản trị kinh tế khu vực hoặc xuyên khu vực đang đóng một vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Sự phát triển này có thể được nhìn thấy trong đa phương hóa Sáng kiến Chiềng Mai, tăng cường BRICS và gia tăng các cuộc đàm phán hiệp định thương mại tự do siêu khu vực như Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), và Quan hệ đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương (TTIP).
Mặc dù có nhiều thách thức, kiến trúc chính của nền kinh tế thế giới vẫn không thay đổi nhiều. Và cải cách hệ thống kinh tế quốc tế hiện nay cần tập trung vào ba vấn đề chính.
Đầu tiên, vị thế siêu cường của Hoa Kỳ bị thách thức bởi sự suy giảm sức mạnh tương đối. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Hoa Kỳ đã dẫn đầu cho đến năm 2003 khi nó bị Liên minh châu Âu (EU) vượt qua. Theo thống kê do Ngân hàng Thế giới công bố, GDP của Mỹ chiếm tới 30,6% tổng số của thế giới vào năm 2000, trong khi năm 2015, con số này đã giảm xuống còn 24,3%. 1 Đồng thời, thị phần đầu tư và thương mại quốc tế của Hoa Kỳ đã giảm đáng kể. Bất chấp quyền bá chủ tiền tệ mà đồng đô la Mỹ đã duy trì trong nhiều thập kỷ, việc tạo ra đồng euro đã làm suy yếu sự thống trị tuyệt đối của nó, cùng với vấn đề nợ nần đang hoành hành ở Hoa Kỳ, sẽ dần dần thay đổi vị thế là một thiên đường tiền tệ an toàn. Thêm vào đó, khi nền kinh tế ấm áp và thất nghiệp gia tăng đã trở thành mối quan tâm chính của nó, Hoa Kỳ không còn có khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu và đang chuyển trọng tâm sang ghép khủng hoảng trong nước ra nước ngoài nhằm duy trì khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu. Trong lĩnh vực an ninh và ngoại giao, hành vi vô trách nhiệm của Hoa Kỳ và một số chính sách kinh tế và ngoại giao không thành công của nó cũng đã gây ra thiệt hại cho trật tự quốc tế và sự lãnh đạo của chính quốc gia.
Thứ hai, sự trỗi dậy của các cường quốc mới nổi dự kiến sẽ sắp xếp lại kiến trúc của nền kinh tế toàn cầu. Kể từ đầu thế kỷ XXI, các nước đang phát triển đã duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và sức mạnh đoàn kết của họ đang tiến gần đến nhóm Bảy nước công nghiệp hóa (G7). Theo ước tính của IMF, năm 2001, các quốc gia G7 chiếm gần 43.435% tổng GDP của thế giới tính theo ngang giá sức mua, nhưng năm 2015, tỷ lệ của họ đã giảm xuống còn 31,5%. Trong cùng thời gian, thị phần kinh tế do các nước BRICS nắm giữ đã tăng từ 19,3% lên hơn 30,8% trên toàn thế giới. 2 Trong nhiều năm qua, các nước đang phát triển đã trở thành một động lực mới trong nền kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, họ đã bắt đầu tham gia vào thiết kế quản trị toàn cầu cấp cao nhất và do đó đóng vai trò ngày càng quan trọng trong một số tổ chức toàn cầu quan trọng. Tình trạng này được phản ánh trên tất cả trong sự trỗi dậy của Nhóm Hai mươi (G20), bao gồm các nền kinh tế lớn và đang phát triển, và đóng vai trò là nền tảng quan trọng nhất cho hợp tác kinh tế quốc tế. Thật không may, các nước đang phát triển vẫn chưa đạt được vị thế hoặc tiếng nói tương xứng với sức mạnh của họ và động lực tăng trưởng kinh tế của họ trong hệ thống kinh tế quốc tế. Một lý do là các cường quốc mới nổi đang phải đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng nan về bản sắc kép của Vương quốc là các nước lớn nhưng đang phát triển. Nói chung, việc phân phối lại lợi ích, nghĩa vụ và quyền lực do sự trỗi dậy của các nước đang phát triển sẽ có tác động bùng nổ đến trật tự quốc tế. Câu hỏi là có hay không chấp nhận và quản lý sự gia tăng của các nước đang phát triển là chìa khóa để quyết định liệu hệ thống quốc tế hiện tại có co giãn và ổn định hay không.
Thứ ba, những vấn đề mới xuất hiện từ khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra đã đặt ra câu hỏi cho hệ thống kinh tế quốc tế tự do. Khi nguyên tắc thương mại tự do đánh dấu trật tự kinh tế toàn cầu sau chiến tranh, những thập kỷ qua đã chứng kiến toàn cầu hóa kinh tế quy mô lớn, và các nước áp dụng các biện pháp cải cách và chính sách mở cửa, xử lý các vấn đề quốc tế theo cách hợp tác và phối hợp các chính sách hiệu quả. Tuy nhiên, toàn cầu hóa đã trở nên tồi tệ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vì nó cho thấy sự mất cân đối kinh tế, bất bình đẳng và các xung đột xã hội khác đã được che giấu bởi sự tăng trưởng nhanh chóng toàn cầu. Tệ hơn nữa, tác dụng phụ của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu tràn từ kinh tế và tài chính sang lĩnh vực chính trị xã hội, gây xáo trộn ở một số khu vực và quốc gia. Chịu đựng những tai ương tài chính toàn cầu, tình trạng bất ổn lan rộng và xung đột nội bộ, mọi người trên khắp thế giới trở nên lo lắng hơn về sự bất công trong phân phối và tiêu thụ của cải toàn cầu, và theo đuổi công bằng và công lý đã trở thành một xu hướng không thể đảo ngược và ngày càng phổ biến.
Khi ưu thế của Hoa Kỳ trong nền kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ giảm hơn nữa khi Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới vào năm 2024, các nước đang phát triển mở rộng và các vấn đề mới được lên men, trật tự kinh tế toàn cầu bước vào giai đoạn dường như bị phân mảnh. Một số người có thể chỉ ra mặt trái của sự trỗi dậy của Trung Quốc và lo ngại rằng Trung Quốc có ý định thách thức vị thế thống trị của Hoa Kỳ trong trật tự kinh tế toàn cầu. Đó không phải là sự thật. Phải thừa nhận rằng, Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) và Sáng kiến Vành đai và Con đường có khả năng định hình lại địa lý kinh tế ở các khu vực bị ảnh hưởng và do đó gây ảnh hưởng đến bối cảnh kinh tế toàn cầu, nhưng điều đó không nhất thiết có nghĩa là Trung Quốc có tham vọng thay thế sự lãnh đạo của Hoa Kỳ trong nền kinh tế toàn cầu. Thay vào đó, Trung Quốc đặt mục tiêu tuân thủ các quy tắc và thể chế toàn cầu hiện nay đồng thời đảm nhận các trách nhiệm xứng đáng tương xứng với vị thế quốc tế của mình. Không chỉ bởi vì các cường quốc mới nổi, bao gồm cả Trung Quốc, đã được hưởng lợi rất nhiều từ trật tự kinh tế toàn cầu sau chiến tranh và môi trường quốc tế hòa bình, mà quan trọng hơn, cộng đồng quốc tế đang kêu gọi một cách tiếp cận mới để tăng trưởng và triển vọng cạnh tranh với sự khoan dung đối với sự phát triển của các quốc gia khác như là giá trị cốt lõi, có nghĩa là quyền lực tuyệt đối trong trật tự kinh tế toàn cầu phải trở thành quá khứ.
Thật vậy, mỗi một chút thay đổi trong trật tự kinh tế toàn cầu đòi hỏi phải phân phối lại trách nhiệm quốc tế cũng như sức mạnh quốc tế. Các cường quốc mới nổi, bao gồm cả Trung Quốc, nên khuyến khích một viễn cảnh dung nạp sự phát triển trên toàn thế giới. Tu luyện giá trị cốt lõi như vậy sẽ giúp các cường quốc mới nổi thực hiện các trách nhiệm quốc tế tương xứng với sức mạnh quốc gia hiện tại và sự đau khổ lịch sử của chủ nghĩa thực dân, và ngăn họ khỏi bị tin tưởng với trách nhiệm và nghĩa vụ vượt quá khả năng của họ. Đồng thời, thái độ như vậy đối với sự phát triển của các quốc gia khác cũng sẽ yêu cầu các nước phát triển thực hiện trách nhiệm của mình, thực hiện các cam kết và quan tâm nhiều hơn đến nhu cầu hợp lý của các nước kém phát triển. Điều này chắc chắn sẽ có tác động toàn cầu và sẽ chuyển thành một trật tự kinh tế toàn cầu toàn diện hơn trong tương lai gần.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: