Địa chỉ: phòng 405 – Số 254 Nguyễn Văn Linh - Đà Nẵng
Điện thoại : (+84) 236.3650403 (405)
Email: lyluanchinhtri@duytan.edu.vn
Trưởng khoa: TS. Nguyễn Văn Dương
1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Cho đến những thập niên cuối thế kỷ XX, nền kinh tế thị trường theo
nghĩa đầy đủ chỉ có một phương án phát triển là trở thành nền kinh tế TBCN.
Trong thời của mình, C. Mác từng nói rằng nền kinh tế TBCN chính là nền kinh
tế thị trường phát triển đến trình độ phổ biến và hoàn chỉnh. Mác khẳng định
rằng kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử mà bất cứ
nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên con đường
phát triển. Nấc thang đó là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là
nền kinh tế XHCN. Để chuyển lên nấc thang này, nền kinh tế thị trường phải
phát triển hết mức, phải trở thành phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội.
Đây là một kết luận lý luận quan trọng. Nó khái quát quá trình phát triển
của lịch sử nhân loại, trong đó, kinh tế thị trường được xác định là một nấc
thang tất yếu, do đó, là mang tính phổ biến.
Tính phổ biến của kinh tế thị trường thể hiện ở cấu trúc khung chung cho
mọi nền kinh tế thị trường.
1. Những yếu tố cơ bản của kinh tế thị trường
Có thể chỉ ra những yếu tố cơ bản quy định kinh tế thị trường, cũng là
những yếu tố chủ yếu của cấu trúc đó như sau.
Thứ nhất, chủ thể của nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự tồn
tại của các chủ thể kinh tế độc lập dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Về
bản chất, nền kinh tế thị trường thị trường có cấu trúc đa sở hữu. Trong cấu trúc,
sở hữu tư nhân luôn luôn là thành tố tất yếu, bắt buộc. Nói đến kinh tế thị trường
mà phủ nhận sở hữu tư nhân có nghĩa là bác bỏ kinh tế thị trường trên thực tế.
Bên cạnh sở hữu tư nhân, còn có các dạng thức sở hữu quan trọng khác là sở
hữu nhà nước, sở hữu tập thể và dạng đồng sở hữu của các chủ thể khác, ví dụ
sở hữu CTCP, DN tư bản nhà nước, v.v.
Về nguyên tắc, các chủ thể sở hữu và các hình thức sở hữu trong nền kinh
tế thị trường là độc lập và bình đẳng với nhau trước pháp luật và trong hoạt động
kinh doanh (trong cạnh tranh). Nhưng mỗi hình thức sở hữu và mỗi chủ thể sở
hữu lại có vai trò, vị thế và chức năng đặc thù trong sự vận hành của nền kinh tế
thị trường.
Thứ hai, hệ thống đồng bộ các thị trường và thể chế tương ứng. Nền
kinh tế thị trường là một hệ thống hữu cơ mang tính xã hội hoá cao. Do vậy, sự
vận hành của nó luôn luôn là sự vận hành tổng thể của các yếu tố cấu thành.
Mọi nền kinh tế thị trường đều có các yếu tố cấu thành cơ bản là các thị
trường, bao gồm các thị trường yếu tố [các thị trường đầu vào như thị trường
đất đai, thị trường sức lao động, thị trường tài chính (thị trường tiền tệ, thị
trường vốn, thị trường chứng khoán), thị trường máy móc thiết bị, thị trường
khoa học - công nghệ] và thị trường hàng tiêu dùng. Để nền kinh tế thị trường
hoạt động có hiệu quả, phải bảo đảm hai yêu cầu.
- Có sự hiện diện đầy đủ của tất cả các thị trường nói trên.
- Các thị trường phải vận hành đồng bộ.
Để đáp ứng hai yêu cầu này, việc hình thành và phát triển các thị trường
phải tuân theo một trật tự bước đi xác định. Việc không tuân thủ trật tự đó (ví dụ
xây dựng thị trường vốn, thị trường chứng khoán nhưng hệ thống các quyền tài
sản không xác định rõ, thị trường đất đai không được thừa nhận chính thức)
thường dẫn đến sự rối loạn, vận hành kém hiệu quả của từng thị trường chức
năng và của cả nền kinh tế.
Bên cạnh đó, sự vận hành đồng bộ của các thể chế thị trường đòi hỏi phải
thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của thị trường (chủ thể sở hữu độc lập,
mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp, cơ chế phân bổ nguồn lực do
các lực lượng thị trường quyết định là chính, thông qua cạnh tranh tự do, v.v.)
trên cơ sở dược sự bảo đảm của luật pháp. Nếu không được bảo vệ bằng các đạo
luật cơ sở như luật cạnh tranh, luật về các quyền sở hữu, luật chống độc quyền,
luật chống bán phá giá thì nền kinh tế không thể hoạt động bình thường.
Thứ ba, hệ thống giá cả do cung cầu thị trường quyết định là yếu tố cốt lõi
quyết định sự vận hành của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường chỉ
vận hành được một khi hệ thống giá cả được quyết định khách quan bởi thị
trường. Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận là động lực
chủ yếu thúc đẩy nỗ lực hoạt động và hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp. Để phục vụ mục tiêu đó, giá cả phải được thiết định trên các cơ sở khách
quan và được điều tiết bằng cơ chế tự điều tiết (cạnh tranh tự do).
Thứ tư, cơ chế nguyên tắc vận hành cơ bản của nền kinh tế thị trường là
cạnh tranh tự do. Không có cạnh tranh tự do, không thể nói đến kinh tế thị
trường. Về bản chất, cơ chế cạnh tranh thị trường là cơ chế tự điều chỉnh. Do
vậy, nó còn được gọi là “bàn tay vô hình”. Cơ chế này giúp nền kinh tế tạo lập
sự cân bằng mỗi khi bị trục trặc.
Cạnh tranh là cơ chế chủ yếu phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế thị
trường. Thông qua cạnh tranh, các nguồn lực được rút ra khỏi những ngành, lĩnh
vực và địa điểm đang hoạt động kém hiệu quả, di chuyển đến những nơi có lợi
thế phát triển và thu được hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận cao hơn. Thực tế xác
nhận rằng cho đến nay, sau khi nền kinh tế đã vượt qua trình độ kinh tế nông
dân tự cấp - tự túc, cạnh tranh là cơ chế phân bổ các nguồn lực hiệu quả nhất.
Thứ năm, vai trò của nhà nước. Thị trường có những khuyết tật và cơ chế
thị trường có thể bị thất bại trong việc giải quyết một số vấn đề phát triển, ví dụ
như khủng hoảng, đói nghèo, công bằng xã hội, môi trường, v.v. Để khắc phục
chúng và tránh khỏi thất bại thị trường, nhà nước phải tham gia quản lý, điều tiết
sự vận hành nền kinh tế. Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế thị trường
vừa với tư cách là bộ máy quản lý xã hội, vừa là một yếu tố nội tại của cơ chế
vận hành kinh tế. Với các tư cách đó, nhà nước thực hiện ba chức năng:
- Quản lý, định hướng và hỗ trợ phát triển;
- Phân phối lại thu nhập quốc dân.
- Bảo vệ môi trường.
Để thực hiện ba chức năng đó, nhà nước phải giải quyết các nhiệm vụ:
- Cung cấp khung khổ pháp lý rõ ràng, nghiêm minh, có hiệu lực và phù
hợp với đòi hỏi của cơ chế thị trường;
- Kiến tạo và bảo đảm môi trường vĩ mô ổn định, có tính khuyến khích
kinh doanh;
- Cung cấp kết cấu hạ tầng (gồm hạ tầng "cứng" - giao thông vận tải, cung
cấp điện nước, v.v. và hạ tầng "mềm" - dịch vụ thông tin, bưu chính - viễn
thông; tài chính, v.v.) cũng như các dịch vụ và hàng hoá công cộng (chăm sóc
sức khoẻ, giáo dục - đào tạo, bảo vệ môi trường, v.v.).
- Hỗ trợ nhóm người nghèo các điều kiện tối thiểu để tham gia thị trường
bình đẳng.
Năm yếu tố nói trên là 5 yếu tố cấu thành cơ bản khung thể chế chung của
mọi nền kinh tế thị trường. Chúng hình thành một tổng thể, quy định lẫn nhau.
Thiếu bất cứ yếu tố nào trong số đó đều không thể có nền kinh tế thị trường bình
thường, vận hành hiệu quả. Tuy nhiên, trong mỗi nền kinh tế thị trường, tuỳ theo
các điều kiện phát triển cụ thể, vai trò, vị trí và chức năng của từng yếu tố không
hoàn toàn giống nhau. Điều này tạo nên đặc thù của các mô hình kinh tế thị
trường và nền kinh tế thị trường ở những quốc gia cụ thể.
2. Các mô hình phát triển kinh tế thị trường trong lịch sử
Cho đến cuối thế kỷ XX, kinh tế thị trường hầu như chỉ có một phương án
phát triển duy nhất là biến thành kinh tế TBCN. Song thực tế cho thấy kinh tế thị
trường không phát triển theo một mô hình duy nhất mà được thực hiện dưới
nhiều mô hình khác nhau (thị trường tự do, thị trường - xã hội, v.v).
Nhằm làm rõ những nét khái quát chung của quá trình phát triển kinh tế
thị trường, có thể trừu tượng hoá một số đặc điểm cụ thể, phản ánh sự giao thoa,
chuyển tiếp và đan xen giữa các mô hình để quy về ba mô hình chủ yếu sau:
- Mô hình kinh tế thị trường tự do;
- Mô hình kinh tế thị trường - xã hội;
- Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN (ở Việt Nam) hay kinh
tế thị trường XHCN (ở Trung Quốc).
Có thể nói ba mô hình kinh tế thị trường nói trên bao trùm tất cả các nền
kinh tế trên thế giới, trừ một vài ngoại lệ như Bắc Triều tiên và Cu ba. Điều này
xác nhận kết luận của Mác: kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển tất yếu; là
hình thức phổ biến của mọi nền kinh tế ở một trình độ xác định.
Trong khuôn khổ CNTB, kinh tế thị trường phát triển trong 2 mô hình là
kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị trường xã hội.
* Mô hình kinh tế thị trường tự do:
Kinh tế thị trường trong khuôn khổ CNTB chủ yếu phát triển theo mô
hình thị trường tự do, được thực hiện ở hầu hết các nền kinh tế TBCN ở Tây Âu
và Bắc Mỹ. Mô hình này đề cao vai trò của chế độ sở hữu tư nhân, của tự do cá
nhân và cạnh tranh tự do. Trong mô hình kinh tế thị trường tự do, sự can thiệp
điều tiết của nhà nước vào các quá trình kinh tế được hạn chế ở mức thấp. Quá
trình phát triển kinh tế chủ yếu do khu vực tư nhân vận hành dưới sự điều tiết
của “bàn tay vô hình” (tức cơ chế cạnh tranh tự do). Chức năng chính của nhà
nước là bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân và các quyền tự do cá nhân, bảo đảm ổn
định vĩ mô, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân và cơ chế thị trường tự do vận hành
thuận lợi nhất. Sự tham gia của nhà nước vào quá trình phân phối lại, vào hệ
thống phúc lợi xã hội nhằm giảm thiểu tình trạng bất bình đẳng, tạo lập công
bằng xã hội, ngăn chặn và xử lý các thất bại thị trường tuy vẫn được coi trọng
nhưng không nhiều như ở các mô hình khác. Trong mô hình này, trong khi vai
trò động lực phát triển của lợi ích tư nhân, lợi ích cá nhân (lợi nhuận) được đề
cao thì vai trò "bánh lái" của sự điều tiết, định hướng phát triển của nhà nước
(bàn tay hữu hình) lại tương đối bị xem nhẹ so với các mô hình khác.
* Mô hình kinh tế thị trường - xã hội.
Mô hình này được thực hiện thành công ở khá nhiều nước Tây - Bắc Âu,
điển hình là Đức (quê hương của mô hình kinh tế thị trường - xã hội) và các
nước Bắc Âu (Thuỵ Điển, Na Uy và Phần Lan), khu vực nổi tiếng với “mô hình
Thuỵ Điển”. Xét theo tính chất đặc trưng, mô hình này còn có mặt ở nhiều nước
tiên tiến khác như Đan Mạch, Hà Lan, thậm chí, cả ở Pháp và Bỉ với những mức
độ khác nhau.
Về nguyên tắc, mô hình kinh tế thị trường - xã hội thừa nhận các yếu tố
cơ bản phổ biến của kinh tế thị trường như cấu trúc đa sở hữu với sở hữu tư
nhân làm nòng cốt; hệ thống các thể chế thị trường, cơ chế cạnh tranh tự do và
vai trò của nhà nước trong nền kinh tế. Tuy nhiên, so sánh với mô hình kinh tế
thị trường tự do, mô hình này có hai đặc trưng nổi bật.
- Coi các mục tiêu xã hội và phát triển con người (công bằng xã hội, phúc
lợi cho người nghèo và cho người lao động, quyền tự do phát triển của mọi
người dân, v.v.) là mục tiêu của chính quá trình phát triển kinh tế thị trường;
- Nhà nước dẫn dắt nền kinh tế thị trường phát triển không chỉ nhằm mục
tiêu tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mà cả mục tiêu phát triển và hiệu quả xã
hội.
Với những đặc trưng - đặc thù trên, tuy mô hình kinh tế thị trường - xã hội
là một biến thể của nền kinh tế TBCN, song nó phản ánh một xu thế tất yếu của
sự phát triển. Đó là: đến một trình độ phát triển nhất định, trong những điều kiện
cụ thể, tự kinh tế thị trường không thể giải quyết có hiệu quả tất cả các vấn đề
phát triển, nhất là các mục tiêu phát triển xã hội và con người. Để đạt được điều
đó, trong cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường, cần có thêm “bánh lái” để
định hướng “động cơ” thúc đẩy phát triển đi đúng quỹ đạo nhằm phục vụ tốt
không chỉ nhiệm vụ tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mà cả nhiệm vụ phát triển
xã hội và con người.
Có thể khái quát rằng quá trình phát triển kinh tế thị trường, để đạt hiệu
quả, cần hướng tới các mục tiêu xã hội và phát triển con người. Cách thức để
đạt mục tiêu đó không phải là phủ nhận thị trường, xoá bỏ cơ chế thị trường mà
là đặt nhà nước vào vai trò tham gia điều hành và định hướng sự phát triển của
kinh tế thị trường với tư cách là yếu tố cấu thành của cơ chế kinh tế.
Việc triển khai mô hình kinh tế thị trường - xã hội trên thực tế đã mang lại
những kết quả phát triển tích cực, không chỉ ở một vài nước, tại một vài thời
điểm riêng lẻ mà ở hàng loạt nước và kéo dài trong nhiều thập niên 1. Điều này
xác nhận tính tất yếu của xu hướng phát triển mô hình kinh tế thị trường - xã
hội. Tính tất yếu đó cũng được thể hiện triệt để và rõ ràng ở mô hình kinh tế thị
trường thứ ba đang được triển khai ở Trung Quốc và Việt Nam.
* Mô hình kinh tế thị trường XHCN (hay định hướng XHCN)
Loại mô hình kinh tế thị trường này hiện đang được thực thi chỉ ở hai
nước (Việt Nam - kinh tế thị trường định hướng XHCN; và Trung Quốc - kinh
tế thị trường XHCN). Thời gian tồn tại của nó cũng chỉ mới có trong khoảng 1/4
thế kỷ thử nghiệm và từng bước khẳng định. Tuy vậy, các kết quả thực tế đã
chứng tỏ đây là mô hình có sức sống mạnh mẽ và có triển vọng lịch sử to lớn.
Sự ra đời của mô hình này gắn liền với sự sụp đổ của CNXH hiện thực, là
mô hình phủ nhận vai trò của kinh tế thị trường trong quá trình phát triển ở các
nước nghèo, lạc hậu tiến lên CNXH. Vì thế, sự xuất hiện của mô hình này chứng
minh sức sống mãnh liệt của xu hướng tiến lên CNCS như một tất yếu khách
quan của thời đại; đồng thời, khẳng định tính tất yếu và phổ biến của kinh tế thị
trường với tư cách là một giai đoạn bắt buộc trong lịch sử phát triển của mọi nền
kinh tế.
Tuy nhiên, khác với hai mô hình kinh tế thị trường nói trên, tồn tại trong
khung khổ CNTB, mô hình này mới được xác lập chưa lâu (1/4 thế kỷ) và vẫn
đang trong quá trình thử nghiệm, định hình cấu trúc và bản chất. Do vậy, chưa
thể có căn cứ thực tiễn để xác lập một hệ thống lý luận về nó với nội dung hoàn
chỉnh về và logic chặt chẽ.
Trong phần giới thiệu mô hình này, xin được đề cập đến một số khía cạnh
chính của nền kinh tế thị trường XHCN ở Trung Quốc.
3. Nền kinh tế thị trường XHCN của Trung quốc
Quá trình phát triển đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN của
Trung Quốc gắn liền với việc từng bước đoạn tuyệt với nền kinh tế KHH tập
trung. Quá trình này tiến triển qua 4 giai đoạn:
- Giai đoạn một (1978-1984): “lấy kinh tế kế hoạch làm chính, lấy điều
tiết thị trường làm bổ trợ”. Đây là bước chuyển mang tính đột phá.
- Giai đoạn hai (1984-1993): “nền kinh tế XHCN là nền kinh tế hàng hoá
có kế hoạch trên cơ sở chế độ công hữu”.
- Giai đoạn ba (1993-2003): xây dựng “thể chế kinh tế thị trường XHCN”,
thực chất là làm cho thị trường có vai trò cơ sở đối với phân phối tài nguyên,
dưới sự kiểm soát vĩ mô của nhà nước; hình thành thể chế xí nghiệp hiện đại phù
hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường, tách chính quyền khỏi xí nghiệp.
- Giai đoạn bốn (từ HNTƯ 3 khoá XVI, 2003): khẳng định “nền kinh tế
thị trường XHCN”. Đi liền với sự khẳng định này là việc xác định khung thể chế
cơ bản của nền kinh tế thị trường XHCN ở Trung Quốc, bao gồm các yếu tố sau:
+ Nền kinh tế thị trường XHCN mang tính đa dạng sở hữu, với các đặc
trưng: 1) Chế độ kinh tế cơ bản lấy i) chế độ công hữu làm chủ thể và ii) nhiều
chế độ sở hữu khác cùng phát triển1; 2) Hình thức cơ bản của chế độ công hữu là
chế độ cổ phần.
+ Người lao động tự chủ lựa chọn việc làm, thị trường điều tiết việc làm
và chính phủ thúc đẩy việc làm.
+ Phân phối theo lao động là chủ thể; nhiều hình thức phân phối cùng tồn
tại, chú trọng giải quyết vấn đề chênh lệch thu nhập.
+ Nhà nước kiểm soát vĩ mô, chức năng quản lý kinh tế của C.phủ chủ
yếu là phục vụ chủ thể thị trường và sáng tạo môi trường phát triển tốt đẹp.
+ Hiến pháp: cơ sở pháp lý của thể chế kinh tế thị trường XHCN chiếm vị
trí chủ đạo. Phải dựa vào pháp luật để bảo vệ các quyền sở hữu tài sản, kiện toàn
quy tắc giao dịch và chế độ giám sát quyền sở hữu tài sản.
So với hai mô hình kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị trường - xã hội,
bên cạnh những yếu tố cấu thành của kinh tế thị trường nói chung, mô hình kinh
tế thị trường XHCN của Trung Quốc có một số nét đặc thù mang tính bản chất,
1 Đảng CS Trung Quốc xác định muốn phát triển kinh tế thị trường thì phải có kinh tế tư nhân, có chế độ sở hữu tư nhân. Nhưng để có nền kinh tế XHCN thì phải có kinh tế nhà nước và chế độ công hữu.Vì vậy, muốn có nền kinh tế thị trường XHCN thì chế độ kinh tế cơ bản phải bao gồm chế độ công hữu và chế độ tư hữu (hay rộng hơn, kinh tế phi công hữu). ví dụ vai trò chủ thể của kinh tế công hữu trong hệ thống sở hữu, của nguyên tắc phân phối theo lao động trong hệ thống phân phối; vai trò kiểm soát kinh tế vĩ mô của nhà nước, v.v. Gắn với vai trò đặc thù của nhà nước, còn có vai trò đặc biệt của một yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng - vai trò định hướng phát triển
của Đảng Cộng sản. Lực lượng chính trị này bảo đảm tính kiên định của mục
tiêu phát triển và vai trò quyết định của các yếu tố XHCN trong nền kinh tế thị
trường.
Từ tiến trình phát triển nhận thức và thực tiễn kinh tế thị trường XHCN ở
Trung Quốc, nổi lên một số gợi ý sau:
- Thực chất và nội dung của nền kinh tế thị trường XHCN của Trung
Quốc được làm rõ từng bước và đồng thời trên cả ba mặt: lý luận, đường lối và
thực tiễn.
- Các vấn đề của nền kinh tế thị trường XHCN được xem xét và giải quyết
trên cơ sở thay đổi nhận thức về chế độ kinh tế cơ bản, chế độ sở hữu và các
hình thức sở hữu.
- Các bước tiến trong đường lối phải được thể chế hoá thành chính sách
và pháp luật kịp thời, bảo đảm cho thực tiễn vận động theo định hướng và trong
khuôn khổ luật pháp. Đặc biệt, sau Hội nghị TƯ 3 (khoá XVI), trên cơ sở làm
sáng tỏ các vấn đề mấu chốt của kinh tế thị trường XHCN, Trung Quốc đã kịp
thời sửa đổi Hiến pháp, cho phù hợp với thể chế kinh tế thị trường XHCN và
nhằm mục tiêu tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế thị
trường.
4. Một số nhận xét khái quát về quá trình phát triển của kinh tế thị
trường thông qua 3 mô hình cơ bản
- Thực tiễn phát triển và lý luận kinh điển của Mác đều khẳng định tính tất
yếu và phổ biến của kinh tế thị trường trong quá trình phát triển của mọi quốc
gia, dân tộc. Do vậy, đối với bất cứ quốc gia nào chưa trải qua kinh tế thị trường,
để giải quyết được vấn đề phát triển, trước hết phải phát triển kinh tế thị trường
theo đúng nghĩa; phải tạo điều kiện thuận lợi để nền kinh tế phát huy cao nhất
năng lực phát triển của thị trường để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Chỉ trên cơ
sở đó, xét theo mục tiêu chiến lược, mới thoát khỏi tình trạng lạc hậu, nhờ đó, có
điều kiện vật chất và tinh thần để đáp ứng các mục tiêu xã hội và nhân văn.
- Tuy nhiên, kinh tế thị trường không phát triển theo một phương án duy
nhất (phát triển thành kinh tế TBCN), cũng không theo một mô hình đơn nhất
(thị trường tự do). Thực tiễn đã xác nhận những phương án và mô hình phát
triển kinh tế thị trường khác nhau mang tính đặc thù, phụ thuộc vào những điều
9
kiện xác định, hoàn cảnh phát triển cụ thể của quốc gia - dân tộc. Một quốc gia
đi sau không nhất thiết phải vận dụng cứng nhắc các nguyên lý lý luận; cũng
không nhất thiết phải rập khuôn các mô hình kinh tế thị trường có sẵn ở đâu đó,
dù là mô hình hiệu quả, để giải quyết các vấn đề phát triển mang nhiều nét đặc
thù của mình.
- Trong quá trình tiến hoá về mặt mô hình của kinh tế thị trường trên thế
giới, các mô hình xuất hiện sau đều phản ánh một xu hướng chung trong sự phát
triển của kinh tế thị trường. Đó là : 1) Ngày càng nhấn mạnh các mục tiêu xã hội
- con người; 2) Thừa nhận vai trò định hướng, tổ chức và điều tiết phát triển của
nhà nước.
Trên thực tế, xu hướng này cũng thể hiện trong cả quá trình phát triển của
các nền kinh tế đi theo mô hình kinh tế thị trường tự do.
Việc khẳng định tính phổ biến trong các mô hình kinh tế thị trường đặc
thù hàm ý rằng việc lựa chọn mô hình thị trường định hướng XHCN là đúng với
xu hướng chung của loài người.
II. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT
TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM.
Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN” được khẳng định tại
Đại hội Đảng IX năm 2001. Đây là kết quả của quá trình 15 năm đổi mới tư duy
và thực tiễn ở nước ta, được đúc kết lại trên cơ sở kiểm điểm, đánh giá và rút ra
các bài học lớn tại các kỳ Đại hội Đảng.
Quá trình đổi mới tư duy lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN
được xác định trên cơ sở khái quát lại quá trình đổi mới qua ba nấc thang nhận
thức về nền kinh tế XHCN, tương ứng với ba giai đoạn phát triển của nền kinh
tế: Trước Đại hội Đảng VI (năm 1986); Từ Đại hội Đảng VI đến Đại hội Đảng
IX (1986-2000) và Từ Đại hội Đảng IX đến nay.
1. Giai đoạn trước Đại VI (1986)
Nền kinh tế vận hành trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao
cấp. Những cải tiến theo hướng kinh tế thị trường chủ yếu ở cấp vi mô, mang
tính cục bộ, không triệt để và thiếu đồng bộ, diễn ra trong khuôn khổ cơ chế kế
hoạch hoá tập trung và nhằm duy trì, củng cố hệ thống kinh tế công hữu, tập
trung, bao cấp và đóng cửa.
- Đây là giai đoạn nền kinh tế chịu sự thống trị tuyệt đối của chế độ sở hữu
công cộng, vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung với các đặc trưng nổi bật
là quan liêu - bao cấp. Các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, thị trường bị phủ nhận.
- Do tính kém hiệu quả của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, dưới áp
lực của thực tiễn, trong thời kỳ cuối thập niên 1970, đầu thập niên 1980, trong
nền kinh tế diễn ra những cải cách cục bộ theo hướng bước đầu thừa nhận thị
trường là một công cụ bổ sung cho kế hoạch, chủ yếu để tổ chức hoạt động kinh
doanh ở cấp vi mô Với sự thừa nhận này, thị trường không bị coi là đối lập với
CNXH và có thể chấp nhận được trong quá trình xây dựng CNXH.
Năm 1979: Hội nghị TƯ 6 (khoá IV): Nghị quyết về lưu thông - phân
phối, mở đường cho việc áp dụng cơ chế “kế hoạch 3 phần” trong các DNNN,
cho phép DNNN vươn ra thị trường tự do với phần vượt ra ngoài kế hoạch pháp
lệnh.
Năm 1981: Khoán 100 trong nông nghiệp. Hộ nông dân nhận khoán sản
phẩm theo khâu công việc và được quyền bán sản phẩm vượt khoán trên thị
trường tự do.
Đây là hai điểm đột phá thị trường đầu tiên ở hai lĩnh vực kinh tế chủ chốt,
tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ cho doanh nghiệp, tập thể và người lao động.
- Tuy đây là sự chuyển biến nhận thức và thực tiễn quan trọng, mang tính
đột phá, song vẫn chưa đủ để tạo ra một bước ngoặt căn bản trong quan điểm lý
luận và thực tiễn về quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế XHCN. Thị
trường chỉ được coi là công cụ bổ sung. Công cụ chủ yếu để quản lý, điều hành
và tổ chức kinh tế vẫn là kế hoạch pháp lệnh với các chỉ tiêu định lượng cụ thể
giao xuống từng doanh nghiệp (xí nghiệp quốc doanh và HTX). Về thực chất, đó
là những cải tiến, cải cách thể chế cục bộ trong khuôn khổ cơ chế cũ (kế hoạch
hoá tập trung) và nhằm duy trì, củng cố hệ thống kinh tế vận hành thông qua cơ
chế đó.
Giai đoạn 1984-1986: nhà nước giảm dần số mặt hàng cung cấp định
lượng (thu hẹp dần chế độ hai giá). Năm 1985, dưới áp lực lạm phát mạnh, tiến
hành đổi tiền. Các bước “tiến ra” thị trường này gây “sốc” mạnh trong xã hội do
giá của ngày càng nhiều hàng hoá chuyển thành giá thị trường trong khi giá các
sản phẩm đầu vào như lương (giá lao động) và lãi suất, tỷ giá (giá vốn) và giá
một số mặt hàng thiết yếu (gạo, chất đốt, thịt, v.v.) vẫn là phi thị trường. Nền
kinh tế lâm vào tình trạng rối loạn, khủng hoảng. Nguyên nhân không phải do
việc áp dụng các quan hệ giá trị - thị trường mà do áp dụng chúng một cách
thiếu đồng bộ, không hệ thống và thiếu triệt để.
- Trong nhận thức lý luận, vẫn chưa thừa nhận những thay đổi mang tính
cấu trúc của nền kinh tế mà thiếu chúng, không thể có nền móng cho sự tồn tại
và phát triển của kinh tế thị trường. Cụ thể:
+ Trên thực tế, chưa thừa nhận tính tất yếu của kinh tế đa thành phần, đa
sở hữu, của sở hữu tư nhân và các lợi ích hợp pháp được hưởng từ các quyền tài
sản (phủ nhận nguyên tắc phân phối dựa vào nguồn vốn đóng góp).
+ Không thừa nhận quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm tài
chính của doanh nghiệp.
+ Nền kinh tế vận hành theo nguyên tắc "hiện vật", phủ nhận thị trường,
giá cả và cạnh tranh thị trường.
+ Tiếp tục duy trì mô hình tự cung - tự cấp kiểu Xô viết: xây dựng nền
kinh tế tự bảo đảm, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, hướng nội, phụ thuộc
vào nguồn tài trợ quốc tế (từ các nước XHCN).
- Hệ quả của những thay đổi cục bộ trong tư duy và thực tiễn trước đổi
mới:
+ Nền kinh tế nhiều thành phần, đa sở hữu không được thừa nhận trên
thực tế;
+ Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp tiếp tục thống trị.
+ Thị trường bắt đầu có tác động tích cực nhưng rất hạn chế, không đóng
vai trò điều tiết hoạt động của doanh nghiệp.
+ Nền kinh tế bị rối loạn, lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng.
+ Lực lượng SX bị trói buộc; quan hệ sản xuất trở thành lực cản phát
triển.
+ Tình thế khủng hoảng làm gia tăng áp lực đổi mới toàn diện cơ chế kinh
tế.
2. Giai đoạn từ Đại hội VI (1986) đến hết Đại hội VIII (2001)
Đổi mới toàn diện cả cấu trúc và cơ chế vận hành nền kinh tế với nội
dung chính là từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước, theo định hướng XHCN.
- Đại hội VI đột phá mạnh và căn bản trong tư duy lý luận bằng việc đề ra
đường lối đổi mới, trong đó, phê phán và từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp, coi sản xuất hàng hoá và kinh tế hàng hoá không phải là sản
phẩm riêng có của CNTB, thừa nhận sự tồn tại khách quan của “nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước” trên con đường đi lên CNXH (Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thông qua tại Hội nghị
giữa kỳ Đại hội VII).
- Khẳng định các yếu tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế hàng hoá trong
giai đoạn quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam:
+ Các thành phần kinh tế với các loại hình sở hữu khác nhau, cùng tồn tại
lâu dài, trong đó, sở hữu toàn dân và tập thể là nền tảng, kinh tế quốc doanh
đóng vai trò chủ đạo.
+ Đổi mới khu vực DNNN theo hướng tăng quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm tài chính, chịu sự điều tiết ngày càng nhiều của thị trường.
+ Tạo điều kiện và khuyến khích sự phát triển của các DN thuộc mọi
thành phần kinh tế phi nhà nước; đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp
và tăng cường hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam.
+ Thừa nhận cơ chế một giá do thị trường định đoạt đối với đại bộ phận
hàng hoá và dịch vụ. Từng bước áp dụng chế độ lãi suất và tỷ giá thị trường;
+ Thừa nhận cạnh tranh bình đẳng, giảm độc quyền và đặc quyền trong
kinh doanh. Xoá bỏ ngăn sông cấm chợ, cho phép tự do giao lưu hàng hoá,
thống nhất thị trường cả nước.
+ Chấp nhận tính chất chính đáng của động cơ lợi nhuận trong kinh
doanh; thừa nhận tính hợp pháp của thu nhập từ các quyền tài sản trong khi vẫn
coi thu nhập từ lao động là nguyên tắc chủ yếu.
+ Giới hạn vai trò trực tiếp phân bổ nguồn lực thông qua đầu tư từ NSNN;
tạo điều kiện để thị trường trở thành công cụ chủ yếu phân bổ các nguồn lực.
- Mở cửa kinh tế và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hoá,
đa dạng hoá quan hệ với thế giới, chủ trương làm bạn với tất cả các nước, biến
nền kinh tế nước ta thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới và khu vực.
- Mở rộng cơ hội phát triển cho đông đảo nhân dân thuộc tất cả các tầng
lớp ở khắp mọi miền trong nước. Lợi ích do đổi mới mang lại được phân phối
rộng khắp và tương đối bình đẳng trong xã hội. Nhân dân ngày càng có nhiều cơ
hội việc làm, tiếp thu tri thức mới và nâng cao trình độ văn hoá và năng lực hành
động. Quá trình đổi mới giúp nhận thức đầy đủ hơn, đi đến khẳng định quan
điểm: "phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường"; thực hiện mục tiêu hành động: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh".
- Nhờ đổi mới, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; nền kinh
tế tăng trưởng khá nhanh và vững chắc, tạo nên những chuyển biến cơ bản trong
phát triển kinh tế - xã hội; giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng; giữ vững độc lập
chủ quyền và an ninh quốc gia, tạo chuyển biến mạnh trong quá trình CNH,
HĐH đất nước, cải thiện đáng kể đời sống các tầng lớp nhân dân, đạt thành tích
có ấn tượng về xoá đói giảm nghèo và phát triển con người.
Đại hội IX,X,XI,XII đã nhận thức ngày càng sâu sắc đầy đủ hơn về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
(1)- Tiếp tục đổi mới tư duy và nhận thức về thể chế KTTT và phát triển nền KTTT Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế tuân theo các quy luật của KTTT có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế, có hệ thống đầy đủ, đồng bộ các loại thị trường; các chủ thể thị trường được cạnh tranh tự do theo pháp luật; giá cả được hình thành trên cơ sở cung - cầu và quy luật giá trị; thị trường ngày càng đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển và là một bộ phận hữu cơ của thị trường thế giới; Nhà nước đóng vai trò phục vụ, tạo khung khổ pháp lý, hỗ trợ và quản lý phát triển nền kinh tế, tôn trọng các nguyên tắc và các quy luật của KTTT. Các nguồn lực của Nhà nước được phân bổ theo chiến lược, kế hoạch, quy hoạch và theo cơ chế thị trường.
Phát triển nền KTTT định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, định hướng, cùng với các công cụ và chính sách khác để Nhà nước điều tiết nền kinh tế đảm bảo phát triển bền vững. Kinh tế tư nhân là một động lực phát triển quan trọng của nền kinh tế. Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp.
- Trong thiết kế và vận hành thể chế KTTT định hướng XHCN, cần phải tiếp tục hoàn thiện đồng bộ 3 bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế có quan hệ hữu cơ: (1) Hệ thống pháp luật, quy tắc, chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi và giao dịch kinh tế; (2) Các thể chế về chủ thể và các yếu tố, các loại thị trường trong nền kinh tế; (3) Cơ chế thực thi, kiểm tra, giám sát, điều chỉnh và xử lý vi phạm trong nền kinh tế.
(2)- Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Thể chế hóa quyền tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được xác lập trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công; quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền sở hữu, nhất là các thiết chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở đẩy mạnh cổ phầnhóa, bán vốn mà Nhà nước không cần nắm giữ theo nguyên tắc thị trường. Hoàn thiện thể chế định giá tài sản, kể cả đất đai, tài sản vô hình trong cổ phần hóa. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích. Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Khẩn trương nghiên cứu để sớm thành lập cơ quan chuyên trách ngang bộ làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Mở rộng chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự và tài chính. Áp dụng cơ chế tài chính như doanh nghiệp cho các đơn vị sự nghiệp công có nhu cầu và điều kiện. Tiếp tục đổi mới kinh tế hợp tácvà khu vực hợp tác xã, phát triển, nhân rộng các hợp tác xã kiểu mới, nhất là trong nông nghiệp, tăng cường chính sách thu hút các nguồn lực từ bên ngoài, chủ động lựa chọn và ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý, công nghệ hiện đại, có vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với các doanh nghiệp trong nước trong phát triển công nghiệp hỗ trợ.
(3)- Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; đẩy mạnh cơ cấu lại thị trường tài chính,nhất là tái cơ cấu thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, hệ thống ngân hàng thương mại và xử lý nợ xấu của nền kinh tế (bao gồm nợ xấu của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp...). Thực hiện các chính sách tín dụng, lãi suất, tỉ giá, các công cụ của Ngân hàng Nhà nước theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thị trường bất động sản được vận hành thông suốt, phù hợp cung - cầu. Đổi mới chính sách để khai thác có hiệu quả nguồn lực tài chính từ đất đai và tài sản, kết cấu hạ tầng trên đất. Xây dựng các thể chế hình thành thị trường sơ cấp, thứ cấp về đất đai, kể cả đất nông nghiệp thay thế cho cách thức giao đất, cho thuê đất, bảo đảm thị trường về đất đai hoạt động công khai, minh bạch và trật tự. Hoàn thiện thể chế về giá, phí, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và công khai minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với hàng hóa, dịch vụ công thiết yếu; đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp cho người nghèo, đối tượng chính sách. Không lồng ghép các chính sách xã hội trong giá. Hoàn thiện pháp luật về phí và lệ phí; rà soát, chuyển đổi chính sách phí, lệ phí đối với một số dịch vụ công sang áp dụng chế độ giá dịch vụ. Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá. Hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
(4)- Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội trong từng chương trình, dự án; trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Chú trọng nghiên cứu, ban hành đồng bộ các chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội. Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, thống nhất, tăng tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân.
(5)- Hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế vùng và liên kết vùng, quy hoạch và phân công, phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương. Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế vùng trên cơ sở lợi thế so sánh của từng địa phương, khắc phục không gian kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính. Tạo lập thể chế kinh tế đặc thù, đẩy mạnh cho các địa phương, vùng kinh tế trọng điểm thực sự trở thành đầu tàu, động lực lan tỏa vùng ngoại vi và cả nước. Hoàn thiện thể chế phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương, vừa bảo đảm tập trung thống nhất của nền kinh tế, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương. Đổi mới hệ thống chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia và địa phương.
(6)- Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động hội nhập quốc tế, tham gia và khai thác có hiệu quả lợi ích kinh tế các hiệp định tự do hóa kinh tế song phương và đa phương, gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể. Hoàn thiện thể chế phòng ngừa và giảm thiểu tranh chấp quốc tế; sớm hoàn thiện tương trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc tế.
(7)- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục điều chỉnh, hoàn chỉnh chức năng, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động của các cấp ủy, chính quyền trong phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tập trung ổn định kinh tế vĩ mô; thiết lập khung khổ pháp luật, chính sách và bộ máy thực thi bảo đảm các loại thị trường liên tục được hoàn thiện và hoạt động có hiệu quả, có cạnh tranh công bằng, bình đẳng và kiểm soát hiệu quả độc quyền kinh doanh dưới mọi hình thức; tổ chức cung ứng các loại dịch vụ công ích, thiết yếu; giảm bất công, bất bình đẳng về thu nhập, phúc lợi và thực hiện các nhiệm vụ xã hội khác. Tăng cường năng lực thiết kế tổng thể và giám sát quá trình thực hiện đổi mới thể chế kinh tế. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn, có sức cạnh tranh cao. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong hoạt động kinh tế của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật. Bảo đảm sự tham gia có hiệu quả của các tổ chức chính trị, xã hội, xã hội - nghề nghiệp trong xây dựng thể chế kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội./.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: