Địa chỉ : P.203 - K7/25 Quang Trung - Đà Nẵng
Điện thoại : 05113 827 111 ( 203)
Những ngôi chùa trở thành di sản văn hóa của dân tộc
Vào thế kỷ 11, dưới triều Lý, các vị vua tập trung lo xây dựng đền chùa thể hiện phong phú, đa dạng qua kiến trúc và mỹ thuật trang trí đạt đến trình độ cao của nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc. Trải qua sự thăng trầm của lịch sử, của thiên tai, nhiều ngôi chùa đã bị tàn phá, song đã được nhân dân góp công sức, tiền của trùng tu và tôn tạo, đến nay trên cả nước có tới hàng nghìn ngôi chùa với vẻ đẹp độc đáo qua óc sáng tạo và bàn tay khéo léo của biết bao nhiêu nghệ nhân và thợ lành nghề.
Tuy mỗi chùa có một vẻ khác nhau không chùa nào giống chùa nào nhưng có một điểm chung là đều có một khung cảnh thiên nhiên tĩnh lặng như muốn đưa con người vào cõi thiền để tu nhân tích đức, làm điều thiện, tránh cái ác. Bao đời nay, tiếng mõ cầu kinh, tiếng chuông chùa đã để lại ấn tượng mạnh trong tâm khảm con người Việt Nam, vừa có ý nghĩa tâm linh vừa có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Chùa Dâu, còn có tên là Diên Ứng, ở làng Dâu. Ngôi chùa cổ nhất Việt Nam hiện nay, được xây vào đầu thế kỷ thứ 3. Cuối thế kỷ thứ 4, Thiền sư Tỳ ni đa lưu chi đã thuyết pháp tại chùa này, lập nên thiền phái đầu tiên ở Việt Nam. Chùa được ông Mạc Ðĩnh Chi dựng lại với qui mô lớn vào thế kỷ 14, và trùng tu nhiều lần ở các thế kỷ sau.
Ở Hà Nội có Chùa Một Cột, kiến trúc rất độc đáo với tòa đài dựng trên một cột đá giữa cái hồ vuông. Chùa hình vuông mỗi chiều 3 m, mái cong dựng trên cột đá hình trụ. Cột có đường kính 1,2 m, cao 4 m, chưa kể phần chìm dưới đất. Tầng trên là hệ thống những thanh gỗ tạo thành bộ khung sườn vững chãi đỡ cho ngôi đài dựng bên trên như một đóa hoa sen vươn thẳng lên khu hồ có lan can bằng gạch bao quanh. Từ bờ ngoài có cầu thang bằng gạch dẫn lên Phật đài. Trên cửa Phật đài có biển đề "Liên hoa đài" ghi nhớ sự tích nằm mộng của vua Lý dẫn đến việc xây chùa. Tương truyền năm 1049, vua Lý Thái Tông chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen, vua cũng được dắt lên đó. Khi vua tỉnh giấc đem việc ấy kể lại, sư Thiền Tuệ khuyên vua dựng chùa. Theo bia chùa Ðọi (Hà Nam) thì quy mô Liên hoa đài thời Lý to hơn ngày nay nhiều: Cây cột đá giữa hồ Linh Chiểu có đóa hoa sen nghìn cánh trên dựng tòa điện mầu xanh, trong điện đặt tượng Quan Âm. Vòng quanh hồ là dãy hành lang. Bên cạnh là ao Bích Trì, mỗi bên đều bắc cầu vồng đi qua. Phía sân trước cầu, hai bên tả hữu xây tháp lưu ly.
Chùa Bà Ðá xây vào thế kỷ 15. Tương truyền vào thời Lê Thánh Tông khi đào đất xây thành Thăng Long, người ta tìm thấy một pho tượng nữ bằng đá vùi sâu trong đất. Người đương thời cho đó là tượng của Thánh Mẫu bèn lập đền thờ tượng gọi là đền Bà Ðá. Về sau là nơi thờ Phật. Dưới thời Pháp thuộc chùa bị cháy, tượng bị mất. Sau chùa được xây lại và tạc tượng Thích Ca thay vào. Chùa không có tam quan, lối vào là một ngõ hẹp sâu khoảng 9 m. Tiền đường xây kiểu chữ nhất, trung đường xây kiểu chữ đinh, nối liền với nhau. Các bộ vì kèo kết cấu theo lối chồng giường. Tượng Phật đều bằng gỗ sơn son thếp vàng.
Chùa Bút Tháp ở Bắc Ninhvì có ngọn tháp hình cây bút nên có tên gọi như vậy. Chùa xây từ thời vua Trần Thánh Tông (1258-1278), khi hòa thượng Huyền Quang đến tu. Ông là một nhà sư giỏi, đỗ tiến sĩ và là một trong ba vị tổ của giáo phái Trúc Lâm. Ông cho xây ngọn tháp cao chín tầng, trang trí hình hoa sen. Nghệ thuật trang trí theo phong cách đời Lý - Trần. Các bức trang trí chạm nổi trên đá ở cầu đá, ở lan can thượng điện. Chùa là danh thắng từ lâu đã được xếp hạng.
Chùa Hiến ở Hưng Yênđược xây dựng vào đời Hậu Lê. Có kiến trúc "Nội công ngoại quốc" gồm ba gian tiền đường, ba gian Thiêu hương và ba gian Hậu cung. Tiền đường và thiêu hương thờ Phật, Hậu cung thờ Mẫu. Ðây là cách thờ tự rất phổ biến ở các chùa "tiền Phật, hậu Mẫu". Phần điêu khắc với con rồng đầu đao, kẻ bảy trạm thể hiện cá hóa long là nét nghệ thuật điêu khắc cổ rất quen thuộc ở các đình, đền, chùa Việt Nam. Kiến trúc tòa Thiêu hương nổi lên với hai lớp mái và ống thoát hương mang ảnh hưởng kiến trúc Huế. Chùa Hiến là một trong 24 công trình kiến trúc xưa nổi tiếng của mảnh đất "thứ nhất kinh kỳ thứ nhì phố Hiến".
Chùa Keo ở Thái Bình. Năm 1067, vua Lý Thánh Tông đến lễ chùa, ban tiền tu sửa. Chùa Keo thờ Phật, tòa Thánh thờ vị sư tổ của chùa là Không Lộ thiền sư. Kiến trúc của chùa được bố trí từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Ngoài cùng là tam quan ngoại, đi vòng theo hồ hình chữ nhật vào tam quan nội, tiếp đó là khu chùa chính, bố trí theo kiểu "nội công ngoại quốc". Ðặc biệt gác chuông ba tầng của chùa Keo là nơi tập trung cao độ của nghệ thuật điêu khắc gỗ tinh xảo của thời Hậu Lê. Nói đến chùa Keo Thái Bình, người ta nhớ ngay đến gác chuông cũng như nói đến chùa Cổ Lễ Nam Ðịnh, người ta nhớ ngay đến tháp Cửu phẩm liên hoa cao 12 tầng có kiến trúc độc đáo hiếm có trong hệ thống các tháp Việt Nam.
Cách Hà Nội 37km về hướng Tây, ở thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây có một quả núi cao khoảng 50m nằm trên một địa thế rất đẹp: giữa một rừng cây cối tre trúc xanh rờn che kín những mái nhà tranh ẩn trên sườn núi. Đó là núi Câu Lậu. Có tài liệu cho rằng sở dĩ ngọn núi này có tên như vậy vì hình nó cong cong như chiếc lưỡi câu. Nhưng xét về từ nguyên học, thì tên núi theo âm cổ vốn là "Klâu", nghĩa là núi Trâu, về sau có sách vở ghi theo âm chữ Hán là Câu Lậu. Người ta sẽ hiểu được điều này khi đứng từ xa nhìn ngọn núi này kết hợp với các ngọn đồi vùng Kim Quan tạo thành một dãy núi đồi chạy dài từ Ba Vì xuống giữa đồng bằng, trông chẳng khác nào một đàn trâu mà núi Câu Lậu là con trâu mẹ đang quay đầu nhìn lại đàn con. Chùa gồm 3 nếp nhà làm bằng gỗ lim rắn chắc xếp theo hình chữ "Tam": tòa bái đường, tòa chính điện và tòa hậu cung. Ba tòa nhà này cách nhau 1,60m, tạo nên một nhịp điệu kiến trúc độc đáo. Hệ thống cửa sổ hứng lấy ánh sáng lung linh từ bên ngoài, tạo cho nội thất một khung cảnh thoát tục, phù hợp với triết lý sắc sắc không không của nhà Phật.
Mỗi nếp chùa có hai tầng mái kiểu chồng diêm, tám mái và tám góc là các đầu đao vươn lên cong vút với những đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng, phượng. Vật liệu xây chùa chủ yếu là gạch Bát Tràng để trần, các cột gỗ đều kê trên tảng đá xanh tròn khắc hình cánh sen. Mái lợp gồm hai lớp ngói: lớp trên là ngói đầu mũi đúc hình lá đề nổi, lớp dưới là ngói lót hình vuông sơn ngũ sắc. Xung quanh diềm mái của ba tòa nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn, trên mái gắn nhiều con giống bằng đất nung.
Chùa Hương nằm trên địa bàn xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội 60km. Thật ra chùa Hương không phải là một ngôi chùa mà là một hệ thống chùa chiền, đền thờ và hang động nằm trong khu vực có những ngọn núi đá vôi và rừng nhiệt đới, diện tích tất cả khoảng chừng 6km2.
Theo truyền thuyết, vùng núi có hang động này được tìm thấy cách đây hơn hai nghìn năm và đã được đặt tên Hương Sơn - lấy tên một ngọn núi ở phía Bắc Tuyết Sơn trong dãy Himalaya (Ấn Độ), nơi đức Phật đã ngồi tu khổ hạnh suốt 6 năm ròng rã. Đời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã có am thờ Phật dựng trên mảnh dất chùa Thiên Trù.
Theo sách Hương Sơn Thiên Trù thiên phú thì chùa Hương được xây dựng từ đời Lê Huy Tông niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1705). Bia tại chùa Thiên Trù có ghi rằng việc xây dựng nền đất, bậc đá và tôn tạo Kim Dung bảo điện của chùa được thực hiện vào năm 1686 ; còn pho tượng chính trong chùa - tượng Bồ-tát Quan Âm - xưa kia vốn bằng đồng được đúc năm 1767.
Hàng năm, hội chùa Hương mở từ ngày mồng sáu tháng giêng đến rằm tháng ba âm lịch , trải dài trên ba tuyến chính: tuyến động Hương Tích, tuyến chùa Tuyết và tuyến chùa Long Vân. Trên thực tế, suốt trong tháng giêng và tháng hai, cảnh chùa luôn luôn đông vui tấp nập và khách thập phương chủ yếu vãn cảnh chùa theo tuyến động Hương Tích.
Chùa Thiên Mụ hay còn gọi chùa Linh Tự là ngôi chùa cổ nhất, kiến trúc đồ sộ nhất và cũng là ngôi chùa đẹp nhất của xứ Huế. Chùa được dựng trên đồi Hà Khê (thuộc địa phận xã Hương Long) bên tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố khoảng 6 km về phía tây. Tên chùa gắn với huyền thoại bà tiên áo đỏ được lưu truyền rộng rãi. Bởi vậy chùa có tiên là Thiên Mụ (bà tiên trên trời).
Truyền thuyết xưa kể lại rằng: Đồi Hà Khê rất thiêng, khoảng đời nhà Đường có viên đại tướng tên là Cao Biền từng đi khắp các nơi núi non sông biển nước ta xem nơi nào có khí linh thiêng thì tìm cách yểm đi. Cao Biền thấy trên đồi Hà Khê có khí thiêng, bèn đào sau chân đồi để cách mạch đi, khiến cho linh thiêng về sau không cư tụ được. Đêm hôm đó bỗng có một người đàn bà thể sắc trông thì còn trẻ nhưng mái tóc bạc phơ, mình vận áo đỏ ngồi dưới chân đồi than vãn, rồi cất tiếng nói to: "Đời sau nếu có bậc quốc chủ muốn bồi đắp mạch núi để làm mạch cho Nam triều thì nên lập chùa thờ Phật, thỉnh cầu linh khí trở về nơi núi này để phúc dân giúp nước, tất không có gì phải lo". Người đàn bà ấy nói xong biến mất. Từ đó gò đất được gọi là núi Thiên Mụ
Khoảng năm 1601, Nguyễn Hoàng tức chúa Tiên, vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong sau khi rời kinh đô Thăng Long đem quân vào đây định kế lâu dài, một hôm đi qua nơi này, thấy địa thế đẹp, hàng dẫy đồi chập chùng như uốn khúc bên sông, đặc biệt thấy một gò cao dáng tựa như chiếc đầu rồng đang ngoái nhìn về phía núi mẹ, lại nghe sự tích kể trên, ông tự nhận mình là vị chúa được bà tiên nói đến. Ông ra lệnh xây dựng chùa Phật và cho đề chữ "Thiên Mụ Tự" (chùa Thiên Mụ). Từ đó dân chúng đến cầu đều thấy linh thiêng ứng nghiệm.
Ở TP Hồ Chí Minh có gần một nghìn ngôi chùa, trong đó có những ngôi chùa có lịch sử hơn hai trăm năm như: Từ Ân, Giác Lâm, Hội Sơn, Huê Nghiêm, Phước Tường và Long Thạnh. Các chùa cổ ở TP Hồ Chí Minh thường bố trí gian thờ Phật ở phần trước của chính điện và có một bức tường ngăn để phía sau thờ Tổ khác với phía bắc nhà thờ tổ thường được xây sau, chính điện qua một cái sân. Còn kiến trúc các chùa mới Vĩnh Nghiêm, Xá Lợi, Ấn Quang, Pháp Hội... thì đều có lầu và đúc bê-tông cốt sắt thay vì dựng khung gỗ. Kiến trúc các chùa ở TP Hồ Chí Minh có những nét riêng nhưng đều thể hiện phong cách kiến trúc đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Mỹ thuật Phật giáo trong các ngôi chùa được thể hiện các bàn thờ được làm bằng gỗ quý đen bóng, gờ mặt và chân không chạm trổ chỉ có rèm phía trước được chạm lộng rất công phu. Các bao lam Bá điểm, Thập bát La Hán, Hoa điểu chạm lộng cả hai mặt như nhau là những công trình điêu khắc rất có giá trị. Các câu đối, hoành phi, phù điêu đều là những công trình điêu khắc nổi tiếng của các nghệ nhân cùng nhiều nhóm thợ từ miền bắc, miền trung kết hợp với các nhóm thợ ở Thủ Dầu Một, Cần Ðước, Thủ Ðức... và được tiếp nối mãi về sau này khi xây dựng chùa mới.
Phác họa qua một số ngôi chùa về kiến trúc và mỹ thuật trang trí, có thể thấy các chùa Việt Nam gắn bó rất mật thiết với trình độ và phong cách kiến trúc, điêu khắc của dân tộc ta trong các thời kỳ lịch sử, gắn bó với đời sống xã hội qua các triều đại. Ở đó thể hiện tinh hoa và bản sắc văn hóa Việt Nam, thể hiện óc sáng tạo và bàn tay khéo léo của các nghệ nhân và thợ lành nghề Việt Nam từ đời này qua đời khác. Hầu hết các tượng Phật cổ là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc nổi tiếng, hẳn chúng ta phải thán phục khi chiêm ngưỡng bức tượng Phật nghìn mắt nghìn tay được mô phỏng ở các chùa hiện đang được đặt tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, 18 pho tượng La Hán ở chùa Tây Phương, 287 pho tượng ở chùa Mía, Sơn Tây trong đó có những pho đạt tới đỉnh cao nghệ thuật như tượng Tuyết Sơn, Quan Âm Tống Tử, tượng Bát Bộ Kim cương... Ðến nay, chúng ta đúc được bức tượng phật đồng nặng 100 tấn nguyên khối tại Bái Ðính Ninh Bình, có thể xây dựng những Thiền viện Trúc Lâm ở Ðà Lạt, Yên Tử (Quảng Ninh), Tây Thiên (Vĩnh Phúc), Bạch Mã (Thừa Thiên - Huế) là nhờ đã tiếp thụ được những tinh hoa nghệ thuật của cha ông.
Vẻ đẹp kiến trúc và mỹ thuật điêu khắc ở các ngôi chùa Việt Nam đã tạo nên sức hấp dẫn khách thập phương ở trong nước và quốc tế, đóng góp cho sự phát triển du lịch nước nhà, giới thiệu với các nước trên thế giới nét độc đáo của văn hóa Việt Nam. Trách nhiệm của mỗi người chúng ta là phải giữ gìn những di sản văn hóa đó, càng giữ nguyên trạng càng tốt, nhất là khi trùng tu tôn tạo. Kiến trúc và điêu khắc ở mỗi ngôi chùa được bảo tồn và giữ nguyên trạng càng tôn thêm vẻ đẹp cổ kính đầy bản sắc của các ngôi chùa Việt Nam.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: