Địa chỉ: phòng 405 – Số 254 Nguyễn Văn Linh - Đà Nẵng
Điện thoại : (+84) 236.3650403 (405)
Email: lyluanchinhtri@duytan.edu.vn
Trưởng khoa: TS. Nguyễn Văn Dương
Những nội dung cốt lõi trong Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng (Phần 3 và 4)
Phần thứ ba VỀ KINH TẾ |
1. Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế là một chủ trương lớn, quan trọng xuyên suốt từ Đại hội XI của Đảng
Tăng trưởng kinh tế là mức tăng lượng của cải (tài sản) trong một thời kỳ nhất định. Tăng trưởng kinh tế là một nội dung kinh tế cốt lõi của phát triển kinh tế.
Phân chia theo các nhân tố sản xuất, có mô hình tăng trưởng theo chiều rộng và mô hình tăng trưởng theo chiều sâu.
Đặc trưng của mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng là: Tổng sản phẩm trong nước tăng nhờ huy động ngày càng nhiều các yếu tố sản xuất như vốn tài chính, đất đai, tài nguyên được khai thác thêm và lao động vào các lĩnh vực sản xuất. Tăng trưởng theo chiều rộng bị giới hạn bởi quy mô các nguồn lực đầu vào; trong khi đó năng suất lao động không tăng hoặc tăng không đáng kể.
Đặc trưng quan trọng nhất của mô hình tăng trưởng chủ yếu theo chiều sâu là tăng trưởng kinh tế dựa chủ yếu vào tăng năng suất lao động nhờ lực lượng lao động được đào tạo, có tay nghề cao, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ. Vai trò của nhân tố năng suất tổng hợp của tất cả các yếu tố sản xuất có ý nghĩa to lớn, chủ yếu, quyết định đối với tăng trưởng kinh tế. Trong tăng trưởng theo chiều sâu, độ gia tăng nhiều hơn tổng phần tăng của các yếu tố sản xuất đầu vào, do áp dụng ngày càng nhiều các tiến bộ khoa học - công nghệ, tri thức quản lý kinh doanh, vốn và tài nguyên được sử dụng có hiệu quả hơn và trình độ lao động ngày càng cao nhờ đẩy mạnh giáo dục và đào tạo.
Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế có quan hệ chặt chẽ. Muốn đổi mới mô hình tăng trưởng, phải thực hiện mạnh mẽ cơ cấu lại nền kinh tế; muốn cơ cấu lại nền kinh tế đúng hướng và đạt hiệu quả, phải thực hiện gắn liền với đổi mới mô hình tăng trưởng.
Đại hội XI nhận định, trong 5 năm (2006 - 2010), "nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển", "cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá".
Tuy nhiên, "kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước"; "Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng đầu tư, khai thác tài nguyên", "Cơ cấu kinh tế giữa các ngành, lĩnh vực chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng còn chậm. Cơ cấu trong nội bộ từng ngành cũng chưa thật hợp lý. Năng suất lao động xã hội thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Năng lực cạnh tranh quốc gia chậm được cải thiện"; "Các chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) và chuyển dịch cơ cấu kinh tế không đạt kế hoạch Đại hội X đề ra".
Đại hội XI đã xác định một trong những nhiệm vụ chủ yếu của nhiệm kỳ là: "ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững...".
Về mô hình tăng trưởng, Đại hội XI chủ trương: "Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững".
Về cơ cấu lại nền kinh tế, Đại hội XI xác định: "Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại và điều chỉnh chiến lược phát triển doanh nghiệp; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế".
Với quan điểm "Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt", Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã xác định: "Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức"; "Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; phát triển kinh tế tri thức".
2. Tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Khái quát tình hình triển khai Nghị quyết Đại hội XI về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước:
Chủ trương của Đại hội XI về đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng nhìn chung đã đạt được sự đồng thuận của toàn hệ thống chính trị và nhân dân.
Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị và toàn dân ta đã có nhiều cố gắng trong triển khai thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; ban hành nhiều cơ chế, chính sách, giải pháp để thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và các nghị quyết của Trung ương phù hợp với tình hình mới.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Hội nghị Trung ương 3 khoá XI đã tiếp tục xác định rõ và cụ thể: "Cơ cấu lại nền kinh tế phải gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh"; "Trong 5 năm tới, cần tập trung vào ba lĩnh vực quan trọng nhất: Tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính; tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước" (Kết luận số 10-KL/TW, ngày 18-10-2011).
Hội nghị Trung ương 8 khoá XI nhấn mạnh: "Tiếp tục đẩy mạnh ba trọng tâm tái cơ cấu..."; "Triển khai có hiệu quả đề án tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới" (Kết luận số 74-KL/TW, ngày 17-10-2013).
Bộ Chính trị đã có Thông báo kết luận số 121-TB/TW, ngày 20-12-2013 về Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống tín dụng.
Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, vấn đề đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế đã được thể chế hoá và tổ chức thực hiện như một nhiệm vụ trọng tâm và xuyên suốt trong việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2015.
Quốc hội và Chính phủ đã tổ chức triển khai, thể chế và cụ thể hoá thành các chương trình, đề án, nhiệm vụ trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2015.
Nghị quyết Quốc hội số 10/2011/QH13, ngày 8-11-2011 đã nhấn mạnh: "Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, thực hiện đồng bộ trong tất cả các ngành, các lĩnh vực trên phạm vi cả nước và từng địa phương, đơn vị cơ sở, sản phẩm chủ yếu, với tầm nhìn dài hạn và có lộ trình cụ thể". Nghị quyết Quốc hội số 11/2011/QH13, ngày 9-11-2011 đã "giao Chính phủ khẩn trương hoàn thành đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh; thực hiện đồng bộ theo lộ trình thích hợp trong tất cả các ngành, các lĩnh vực trên phạm vi cả nước".
Trên cơ sở các nghị quyết của Đảng và Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 399/QĐ-TTg, ngày 19-2-2013 phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng giai đoạn 2013 - 2020 và các nghị quyết, quyết định phê duyệt đề án tái cơ cấu các ngành, chiến lược phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế.
Hầu hết các bộ, ngành trung ương đã thành lập ban chỉ đạo tái cơ cấu ngành và ban hành chương trình hành động cụ thể để triển khai thực hiện. Đa số các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã thành lập Ban Chỉ đạo tái cơ cấu do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân làm Trưởng ban; xây dựng chương trình hành động thực hiện các nghị quyết của Trung ương và quyết định, chỉ thị của Chính phủ.
Những kết quả quan trọng và những hạn chế, khuyết điểm được nêu trong Dự thảo văn kiện là:
- Đánh giá chung về kết quả đạt được: Mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng đã bước đầu có sự chuyển biến sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu; đã hình thành những mô hình mới và cách làm mới, sáng tạo. Với việc cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược, nhất là trên một số lĩnh vực trọng tâm, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế có bước cải thiện; bảo đảm hài hoà hơn giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường.
- Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn năm trước; chất lượng tăng trưởng được nâng lên:
Tăng trưởng GDP năm 2011 đạt 6,24%, năm 2012: 5,25%, năm 2013: 5,42%, năm 2014: 5,98% và kế hoạch năm 2015 là 6,2%.
Tốc độ tăng Tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm đạt 5,82%/năm. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng lên; GDP năm 2015 đạt khoảng 204 tỷ USD, bình quân đầu người khoảng 2.200 USD.
Sản xuất công nghiệp từng bước phục hồi; chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2014 - 2015 tăng trên 7,5%; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu công nghiệp tăng mạnh. Khu vực nông nghiệp phát triển ổn định, giá trị sản xuất tăng bình quân 3,9%/năm; độ che phủ rừng đạt khoảng 42% vào năm 2015. Giá trị gia tăng khu vực dịch vụ tăng khá, đạt bình quân 6,5%/năm. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng bình quân 14,7%/năm (loại trừ yếu tố giá tăng khoảng 6,5%). Tổng doanh thu từ khách du lịch tăng bình quân 21%/năm; khách quốc tế đạt khoảng 8,7 triệu lượt vào năm 2015.
- Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt được kết quả bước đầu:
Đã triển khai thực hiện đề án cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng, đạt trên 83% vào năm 2015. Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội giảm, còn khoảng 46,5%.
Tập trung thực hiện cơ cấu lại về đầu tư công, hệ thống các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; triển khai đề án tái cơ cấu ngành công thương, xây dựng.
Hiệu quả đầu tư có bước được cải thiện; tỷ lệ tổng đầu tư toàn xã hội so với GDP giảm mạnh (còn 31% GDP), nhưng vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lý. Tỷ trọng đầu tư công giảm dần, đầu tư ngoài nhà nước tăng lên; đầu tư trực tiếp nước ngoài phục hồi, vốn đăng ký giai đoạn 2011 - 2015 đạt trên 88 tỷ USD, thực hiện đạt 58,5 tỷ USD. Vốn ODA ký kết khoảng 30 tỷ USD, giải ngân khoảng 23 tỷ USD, đóng góp quan trọng vào phát triển kết cấu hạ tầng; đầu tư tư nhân trong nước tiếp tục tăng, chiếm khoảng 42% tổng đầu tư toàn xã hội.
Khẩn trương cơ cấu lại các tổ chức tín dụng; giám sát chặt chẽ và sắp xếp lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém, có nguy cơ đổ vỡ; tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, bảo đảm an toàn hệ thống; tỷ lệ nợ xấu giảm dần, đến cuối năm 2015 còn khoảng 3%. Các công ty tài chính, chứng khoán, bảo hiểm từng bước được cơ cấu lại; quy mô thị trường ngày càng tăng, mức vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt khoảng 33% GDP, thị trường trái phiếu đạt khoảng 23% GDP vào cuối năm 2015.
Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước đạt được những kết quả tích cực. Doanh nghiệp nhà nước cơ bản thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao; tập trung hơn vào những lĩnh vực then chốt, quốc phòng, an ninh, cung ứng hàng hoá và dịch vụ công thiết yếu; cổ phần hoá và thoái vốn đầu tư ngoài ngành theo cơ chế thị trường được đẩy mạnh; vốn nhà nước được bảo toàn và phát triển; giá trị tài sản tăng; tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu trong giới hạn quy định; các doanh nghiệp sau cổ phần hoá đều đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh tốt hơn.
Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực; sản lượng lương thực tăng ổn định, sản lượng lúa năm 2015 đạt trên 45 triệu tấn; đến hết năm 2015 có khoảng 1.800 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 20% tổng số xã.
Cơ cấu công nghiệp chuyển dịch tích cực; tỷ trọng công nghiệp khai khoáng giảm; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng, đạt khoảng 60% vào năm 2015. Tập trung cơ cấu lại ngành, lĩnh vực và sản phẩm theo hướng nâng cao giá trị quốc gia, giá trị gia tăng, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm; từng bước tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Đóng góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng ngày càng tăng; tỷ trọng dịch vụ trong GDP đạt khoảng 44% vào năm 2015. Đã tập trung phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao.
Quy hoạch phát triển ngành, vùng, sản phẩm được rà soát, điều chỉnh phù hợp hơn với kinh tế thị trường. Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch 6 vùng kinh tế - xã hội, 4 vùng kinh tế trọng điểm. Hỗ trợ phát triển vùng khó khăn, nhất là Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và phía Tây các tỉnh miền Trung. Phát triển hạ tầng và thu hút đầu tư vào các khu kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu.
Tập trung thực hiện Chiến lược Biển. Đầu tư phát triển các ngành kinh tế biển, nhất là khai thác dầu khí, vận tải biển, cảng biển, đóng và sửa chữa tàu biển, du lịch biển, nuôi trồng thuỷ sản; phát triển dịch vụ hậu cần nghề cá và đẩy mạnh khai thác xa bờ. Gắn phát triển kinh tế biển với bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Kết quả bước đầu của cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng là: Hiệu quả đầu tư xã hội, đầu tư công từng bước được cải thiện, tình trạng đầu tư dàn trải bước đầu được hạn chế. Hệ thống các tổ chức tài chính - tín dụng được cơ cấu lại một bước, không để xảy ra tình trạng đổ vỡ, mất an toàn hệ thống. Doanh nghiệp nhà nước đang được sắp xếp, đổi mới theo hướng tập trung vào ngành chính, đẩy mạnh cổ phần hoá, triển khai thực hiện mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại, nâng cao tính công khai, minh bạch và hiệu quả hoạt động.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tiếp tục được đẩy mạnh, đạt một số thành quả: Công nghệ sản xuất công nghiệp đã có bước thay đổi về trình độ theo hướng hiện đại. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong giá trị sản xuất công nghiệp tăng, tỷ trọng công nghiệp khai thác giảm dần. Khu vực thương mại, dịch vụ tăng trưởng khá; cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch phù hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn có chuyển biến, mức độ cơ giới hoá trong nông nghiệp tăng; nông nghiệp phát triển toàn diện hơn theo hướng khai thác những lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới; xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ. Cơ cấu kinh tế vùng được quan tâm, có sự chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, địa phương. Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tích cực; chất lượng nguồn nhân lực bước đầu cải thiện. Đội ngũ doanh nhân tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng đã có những đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có bước phát triển; quá trình đô thị hoá diễn ra khá nhanh. Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, góp phần thúc đẩy quá trình tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao giá trị gia tăng của nền kinh tế.
Những hạn chế, khuyết điểm:
- Đánh giá chung về hạn chế, khuyết điểm:Nền kinh tế vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học và công nghệ, lao động có chất lượng cao. Năng suất lao động chậm được cải thiện, thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực. Đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế còn thấp. Chưa phát huy được lợi thế so sánh và tận dụng các cam kết hội nhập quốc tế để nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát triển bền vững. Khoa học, công nghệ chưa thật sự trở thành động lực để nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
- Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm:
Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đầu vào sản xuất của một số ngành còn lệ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Sản xuất kinh doanh chưa gắn kết được nhiều với mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Xuất khẩu thô, xuất khẩu dưới hình thức gia công còn lớn; hàm lượng giá trị quốc gia và giá trị gia tăng còn thấp.
Đổi mới công nghệ và phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp công nghệ cao còn chậm. Năng suất lao động còn thấp. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ đạt khoảng 18% GDP vào năm 2015, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Chưa phát triển được nhiều sản phẩm có giá trị công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế.
Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới còn chậm và kết quả đạt được chưa đồng đều. Ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, cơ giới hoá, công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu. Hợp tác liên kết trong sản xuất nông nghiệp phát triển còn chậm. Chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất nông nghiệp chưa cao; năng suất lao động và thu nhập của người nông dân còn thấp. Tỷ trọng lao động trong nông nghiệp còn lớn.
Nhiều ngành dịch vụ phát triển chậm, chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là các dịch vụ có giá trị gia tăng và hàm lượng khoa học, công nghệ cao. Hệ thống phân phối còn nhiều bất cập, chi phí trung gian lớn, chưa kết nối thông suốt, hiệu quả và chưa bảo đảm hài hoà lợi ích giữa các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ. Phát triển du lịch còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; chất lượng dịch vụ còn thấp, tính chuyên nghiệp trong hoạt động dịch vụ chưa cao.
Một số vùng kinh tế trọng điểm, khu kinh tế chưa phát huy được vai trò đầu tàu cho tăng trưởng kinh tế. Không gian phát triển còn bị chia cắt theo địa giới hành chính. Thiếu thể chế tạo liên kết giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng để phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế.
Cơ cấu lại đầu tư công ở một số ngành, địa phương còn chưa đáp ứng yêu cầu; đầu tư còn dàn trải, hiệu quả còn thấp, thất thoát, lãng phí ở một số dự án còn lớn; xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản còn chậm. Cơ chế, chính sách chưa đủ sức hấp dẫn để huy động nguồn lực tư nhân trong và ngoài nước vào đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng; chậm hoàn thiện cơ sở pháp lý đối với hình thức hợp tác công - tư (PPP). Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa quan tâm nhiều đến công nghệ, tỷ lệ nội địa hoá và bảo vệ môi trường.
Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng mới thực hiện được giai đoạn đầu. Chất lượng tín dụng và dịch vụ ngân hàng cải thiện còn chậm. Cơ cấu tín dụng chưa thật phù hợp với yêu cầu phát triển. Năng lực tài chính, quản trị, kiểm tra, giám sát nội bộ của một số tổ chức tín dụng còn yếu, nợ xấu còn cao. Sở hữu và hoạt động của một số ngân hàng thương mại cổ phần thiếu minh bạch, có mặt chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.
Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá, thoái vốn ở một số doanh nghiệp chưa đạt tiến độ. Tỷ lệ vốn được cổ phần hoá còn thấp. Quản trị doanh nghiệp đổi mới còn chậm; kiểm tra, giám sát nội bộ còn hạn chế. Việc cơ cấu lại, sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường chậm, chưa đạt mục tiêu đề ra. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp nhà nước thấp, chưa tương xứng với tài sản và nguồn lực, thất thoát, lãng phí còn lớn. Doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện rõ vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước.
- Nhiều tiêu chí để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại dự kiến không đạt,như GDP bình quân đầu người, tỷ trọng công nghiệp chế tạo và tỷ trọng nông nghiệp trong GDP, tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội, tỷ lệ đô thị hoá, điện sản xuất bình quân đầu người, chỉ số phát triển con người, chỉ số bất bình đẳng thu nhập, tỷ lệ lao động qua đào tạo, tỷ lệ dân số sử dụng nướcsạch.
Đến năm 2020, dự kiến có 10/15 chỉ tiêu không đạt tiêu chí các nước công nghiệp: GDP bình quân đầu người đạt 3.200 - 3.500 USD theo giá thực tế (theo tiêu chí nước công nghiệp là trên 5.000 USD, giá năm 2010); tỷ trọng công nghiệp chế tạo trong GDP đạt 15% (theo tiêu chí: trên 20%); tỷ trọng nông nghiệp trong GDP dự kiến đạt 15% (theo tiêu chí: dưới 10%); tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đạt 35 - 40% (theo tiêu chí: 20 - 30%); tỷ lệ đô thị hoá đạt 38 - 40% (theo tiêu chí: trên50%); điện sản xuất bình quân đầu người đạt 2.800 kWh/người (theo tiêu chí: trên 3.000 kWh/người); chỉ số phát triển con người (HDI) đạt 0,67 (theo tiêu chí: trên 0,7); chỉ số bất bình đẳng thu nhập (Gini) khoảng 0,38 - 0,4 (theo tiêu chí: 0,32 - 0,38); tỷ lệ lao động qua đào tạo (có bằng cấp, chứng chỉ) trong tổng lao động xã hội đạt 25 - 26% (theo tiêu chí: trên 55%); tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch dưới 92% (theo tiêu chí: 100%).
Về nguyên nhân,những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do nhận thức, nhất là nhận thức về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá chưa đầy đủ; thể chế hoá và tổ chức thực hiện còn chậm, thiếu hệ thống và đồng bộ. Chưa có đột phá về thể chế để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường. Chưa xác định rõ những ngành, lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm cần ưu tiên trong chính sách công nghiệp quốc gia cho từng giai đoạn; thiếu gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá với đô thị hoá, giữa phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn với xây dựng nông thôn mới. Chưa nhận thức đầy đủ và xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Chưa chuẩn bị thật tốt các điều kiện cần thiết và tận dụng thời cơ để hội nhập quốc tế có hiệu quả; có lúc, có việc chưa gắn chặt với đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Dự thảo văn kiện đã nêu định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa trong nhiệm kỳ tới như sau:
Định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng:
- Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển nhanh, bền vững trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Mô hình tăng trưởng trong thời gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững; giải quyết hài hoà giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thân thiện với môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
- Về nguồn lực tăng trưởng: Đổi mới mô hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư sang phát triển đồng thời dựa cả vào vốn đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước. Phát huy vai trò quyết định của nội lực, đồng thời thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI và khu vực sản xuất nông nghiệp.
- Động lực và cũng là điều kiện để đổi mới mô hình tăng trưởng là: Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy nghiên cứu và triển khai (R&D), nhập khẩu công nghệ mới tiên tiến; thực hiện phương thức quản lý, quản trị hiện đại; phát huy tiềm năng con người và khuyến khích tinh thần sản xuất kinh doanh của mọi người để chủ động khai thác triệt để lợi thế cạnh tranh, nâng cao giá trị gia tăng, tăng nhanh giá trị quốc gia và tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Định hướng cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng:
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế và các ngành, các lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung vào các lĩnh vực quan trọng: cơ cấu lại đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính, từng bước cơ cấu lại ngân sách nhà nước; cơ cấu lại và giải quyết có kết quả vấn đề nợ xấu, bảo đảm an toàn nợ công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước với trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gắn với phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
Tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả Đề án tổng thể cơ cấu lại nền kinh tế và cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực. Cụ thể là:
- Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và cải thiện đời sống của nông dân.
- Đẩy mạnh cơ cấu lại công nghiệp, tạo nền tảng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng công nghiệp, xây dựng bình quân khoảng 7,5%/năm; đến năm 2020 tỷ trọng công nghiệp, xây dựng trong GDP khoảng 40%; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP khoảng 25%, trong đó công nghiệp chế tạo khoảng 15%.
- Đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 7 - 7,5%/năm. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP khoảng 45% vào năm 2020. Ưu tiên phát triển những ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức, công nghệ và giá trị gia tăng cao.
- Phát triển mạnh các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo.
- Phát triển các vùng và khu kinh tế. Tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng, giữa các vùng để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương; tạo điều kiện phát triển các khu vực còn nhiều khó khăn, nhất là miền núi, biên giới, hải đảo, Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và phía Tây các tỉnh miền Trung; lựa chọn một số khu có lợi thế đặc biệt để xây dựng đặc khu kinh tế với thể chế vượt trội, hiệu lực, hiệu quả, có khả năng cạnh tranh quốc tế,...
- Đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp:
Thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động theo cơ chế thị trường, bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ được giao; doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực quan trọng và địa bàn chiến lược. Tạo mọi điều kiện thuận lợi phát triển mạnh doanh nghiệp tư nhân để tạo động lực nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Rà soát, sửa đổi pháp luật, chính sách để thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, nhất là các dự án có công nghệ cao, thân thiện môi trường, sản phẩm có giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hoá cao, tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế. Khuyến khích phát triển bền vững kinh tế hợp tác, nòng cốt là hợp tác xã với nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng; tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển có hiệu quả trên các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; góp phần hình thành chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ; bảo đảm hài hoà lợi ích của các chủ thể tham gia. Tạo điều kiện hình thành những tổ hợp nông - công nghiệp - dịch vụ công nghệ cao.
Xác định hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Chú trọng những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế (GDP bình quân đầu người, tỷ trọng giá trị gia tăng công nghiệp chế tạo, tỷ trọng nông nghiệp, tỷ lệ đô thị hoá, điện bình quân đầu người,...); những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội (chỉ số phát triển con người, tuổi thọ bình quân, chỉ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, số bác sĩ trên 1 vạn dân, tỷ lệ lao động qua đào tạo,...); và những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về môi trường (tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch, độ che phủ rừng, tỷ lệ giảm mức phát thải khí nhà kính,...).
II. VỀ HOÀN THIỆN THỂ CHẾ, PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Quan điểm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nội dung lớn trong đường lối đổi mới của Đảng ta
Qua các nhiệm kỳ đại hội, từ Đại hội VI đến Đại hội XI, quan điểm của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không ngừng được phát triển, ngày càng hoàn thiện.
Đại hội IX của Đảng đã khẳng định đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xem đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chỉ ra những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
Đại hội XI đã đưa vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) quan điểm về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: "Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối", "Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân", "Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa".
Về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, đã từng có quan điểm cho rằng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (hay nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa như cách diễn đạt ngày nay) không phải và không thể là kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường; đồng nhất kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường với kinh tế tư bản chủ nghĩa. Chính sự phủ định, đối lập chủ nghĩa xã hội với kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường đã làm cho nền kinh tế nước ta trước đổi mới, cũng như một số nước muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, rơi vào trạng thái trì trệ, khủng hoảng.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xem đây là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đã đem lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, chế độ xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển.
2. Tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đại hội XI đã đề ra các chủ trương về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường; phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường; nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Dự thảo văn kiện đã nêu đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như sau:
Đánh giá những kết quả đạt được:
- Đánh giá chung:Ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt kết quả tích cực; trong đó thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện; môi trường đầu tư, kinh doanh và năng lực cạnh tranh có bước được cải thiện.
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tiếp tục được hoàn thiện. Hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện. Đã ban hành và triển khai thực thi Hiến pháp năm 2013. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định cụ thể hơn, từng bước thực thi có hiệu quả và tạo được sự đồng thuận trong xã hội.
- Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện, cạnh tranh minh bạch, bình đẳng hơn giữa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, góp phần huy động, phân bổ và sử dụng ngày càng hiệu quả các nguồn lực trong, ngoài nước cho phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò kinh tế ngoài nhà nước (không kể đầu tư nước ngoài) ngày càng được phát huy, đóng góp 39% tổng đầu tư toàn xã hội và khoảng 50% GDP. Vai trò, hiệu quả, sức cạnh tranh của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế được nâng lên.
- Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường ngoài nước. Hầu hết các loại giá được xác lập theo nguyên tắc thị trường; thực hiện cơ chế giá thị trường có sự quản lý của Nhà nước đối với một số loại hàng hoá - dịch vụ thiết yếu, gắn với hỗ trợ các đối tượng chính sách, hộ nghèo, vùng có nhiều khó khăn.
- Vai trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, ngày càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội. Việc huy động và phân bổ các nguồn lực gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã từng bước phù hợp với cơ chế thị trường; hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
- Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN; hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO; đàm phán, ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương thế hệ mới.
- Hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu kiên quyết; hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, chất lượng không cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện ba đột phá chiến lược. Nhiều quy định trong hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách và quản lý điều hành chưa tuân thủ đầy đủ quy luật của kinh tế thị trường, nhất là trong phân bổ nguồn lực, quản lý giá hàng hoá, dịch vụ công thiết yếu và chưa bảo đảm cạnh tranh bình đẳng.
- Kết quả triển khai, thực thi thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn hạn chế, chưa tạo được đột phá lớn trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ; môi trường đầu tư, kinh doanh không thật sự bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Giá cả một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự tuân theo nguyên tắc thị trường.
- Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, chưa thể hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước. Hầu hết doanh nghiệp tư nhân quy mô còn nhỏ, thiếu liên kết, khả năng ứng phó với các rủi ro yếu, nhiều doanh nghiệp phá sản, phải giải thể hoặc ngừng hoạt động. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động phổ thông, khai thác cạn kiệt tài nguyên và còn hạn chế trong chuyển giao công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến.
- Trình độ phát triển của các loại thị trường thấp, vận hành chưa thật sự đồng bộ, thông suốt, trong đó, thị trường lao động và thị trường dịch vụ công cơ cấu chưa hợp lý; thị trường tài chính - tiền tệ và thị trường bất động sản tiềm ẩn nhiều rủi ro; thị trường khoa học - công nghệ phát triển chậm.
- Quản lý nhà nước chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Cải cách hành chính và năng lực tạo dựng thể chế để bảo đảm cho doanh nghiệp, người dân tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng trong kinh tế thị trường còn nhiều hạn chế. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm; Nhà nước còn can thiệp trực tiếp, quá lớn trong nền kinh tế. Vẫn còn tình trạng bao cấp, xin - cho trong xây dựng và thực hiện một số cơ chế, chính sách. Sự tham gia giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong hoạt động quản lý nhà nước còn hạn chế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế chưa kết hợp và phát huy tốt nguồn lực bên ngoài với nguồn lực trong nước để phát triển. Các nỗ lực đổi mới kinh tế trong nước chưa thật sự đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Nhiều bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp thiếu chủ động xây dựng các chương trình, kế hoạch toàn diện, cụ thể, chuẩn bị các điều kiện và năng lực về mọi mặt để khắc phục khó khăn, thách thức, tận dụng cơ hội do hội nhập đem lại. Việc tự do hoá thương mại, đầu tư trong một số thị trường, lĩnh vực chưa sát hợp với thực tế phát triển của nền kinh tế. Chậm xây dựng hàng rào kỹ thuật cần thiết và hệ thống quản lý thị trường đủ năng lực và hiệu quả để bảo vệ thị trường trong nước, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, ngăn chặn gian lận thương mại, hàng giả, hàng lậu và hàng độc hại.
Về nguyên nhân, những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do: Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa đủ rõ, nhất là về kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tập thể, cơ chế phân bổ nguồn lực, sở hữu đất đai, cơ chế giá một số hàng hoá, dịch vụ công thiết yếu. Chưa thật sự phát huy đầy đủ quyền tự do kinh doanh của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật. Cơ chế thực thi và phối kết hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong quán triệt, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật còn kém hiệu lực, hiệu quả. Cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát và xử lý vi phạm còn yếu; năng lực phân tích, dự báo và điều chỉnh chủ trương, cơ chế, chính sách còn hạn chế. Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, đất nước chịu tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, trong khi đó, trình độ, năng lực nội tại của nền kinh tế và năng lực xây dựng, thực thi thể chế kinh tế còn nhiều bất cập.
3. Về phương hướng hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Dự thảo văn kiện đã nêu phương hướng hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong nhiệm kỳ tới như sau:
- Cần tiếp tục thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; có giá trị định hướng lâu dài trong suốt thời kỳ quá độ, cần tiếp tục cụ thể hoá phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
Dự thảo văn kiện đã xác định đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Dự thảo văn kiện cũng đã nêu khái quát về các bộ phận cấu thành, vai trò của thị trường, vai trò của Nhà nước, vai trò của nhân dân và mục tiêu bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
Cách thể hiện như trên đã khái quát những vấn đề cơ bản về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cụ thể là:
Về vai trò của kinh tế thị trường, thể hiện ở bốn điểm: vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường; thị trường đóng vai trò chủ yếu phân bổ nguồn lực phát triển; thị trường là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đều phù hợp với cơ chế thị trường.
Về định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở năm điểm: có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội; xác lập quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp để thúc đẩy phát triển mạnh lực lượng sản xuất; và nhất là: thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Về vai trò của Nhà nước, thể hiện ở bốn điểm: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế thị trường; nguồn lực nhà nước được Nhà nước phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp cơ chế thị trường; Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch; Nhà nước sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, cơ chế, chính sách để định hướng, điều tiết nền kinh tế; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Vấn đề "kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo" đã được thống nhất khẳng định trong Cương lĩnh và Hiến pháp. Trong khi khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, cũng xác định: "trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo".
Kinh tế nhà nước gồm nguồn lực nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước, cũng như doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Trong Dự thảo văn kiện đã nêu: Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không đầu tư.
Còn các nguồn lực nhà nước (tài nguyên, đất đai, ngân sách nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia,...), cùng với các công cụ, cơ chế, chính sách được Nhà nước sử dụng để định hướng, điều tiết nền kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Thực tiễn ở nước ta, khi các nguồn lực của Nhà nước cùng với các cơ chế, chính sách tập trung vào lĩnh vực, địa bàn nào thì dẫn dắt, thúc đẩy sự phát triển ở lĩnh vực, địa bàn đó.
Với ý nghĩa quan trọng như vậy, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận của kinh tế nhà nước, hoạt động theo cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, và được cơ cấu lại như đã nêu ở trên.
- Mục tiêu đến năm 2020 là:
Phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu quả các loại thị trường và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, phân bổ nguồn lực cho sản xuất kinh doanh và quản lý giá phải theo cơ chế thị trường. Đồng thời, sử dụng các nguồn lực của Nhà nước, các công cụ điều tiết, chính sách phân phối, phân phối lại để thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo, từng bước nâng cao phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
- Phương hướng tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp:
Thể chế hoá quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người dân theo quy định của pháp luật. Bảo đảm minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Nâng cao năng lực của các thiết chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản.
Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Có chính sách thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh các lĩnh vực mà luật pháp không cấm; xây dựng, thực thi đồng bộ, hiệu quả cơ chế hậu kiểm, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền nhà nước và độc quyền doanh nghiệp, kiểm soát độc quyền kinh doanh. Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản. Hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thị trường.
Doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường. Đẩy mạnh cổ phần hoá, bán vốn mà Nhà nước không cần nắm giữ, bao gồm cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả; hoàn thiện thể chế định giá đất đai, tài sản hữu hình và tài sản vô hình (tài sản trí tuệ, thương hiệu,...) trong cổ phần hoá theo nguyên tắc thị trường. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh với nhiệm vụ chính trị, công ích và nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của kinh tế tập thể,kinh tếhợp tác xã; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ. Đồng thời với quá trình hoàn thiện thể chế, cần có sự chỉ đạo quyết liệt hơn trong tổ chức thực hiện.
Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động lựa chọn và ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp trong nước. Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp quy mô lớn, chất lượng cao, gắn với các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Trong quản lý và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, cần phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước, đồng thời kiểm tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực theo quy định của pháp luật.
- Phương hướng phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường:
Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và công khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với hàng hoá, dịch vụ công thiết yếu; đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp cho đối tượng chính sách và người nghèo. Không lồng ghép các chính sách xã hội trong giá. Hoàn thiện pháp luật về phí, lệ phí; rà soát, chuyển đổi chính sách phí, lệ phí đối với một số dịch vụ công sang áp dụng chế độ giá dịch vụ. Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò của người tiêu dùng, các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nền kinh tế.
Tiếp tục phát triển đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường. Thực hiện đa dạng hoá thị trường hàng hoá,dịch vụ theo hướng hiện đại, chú trọng hình thành khung pháp lý, phát triển hệ thống phân phối thông suốt và hiệu quả. Cơ cấu lại thị trường tài chính, bảo đảm lành mạnh hoá và ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô, loại bỏ nguy cơ mất an toàn hệ thống, phục vụ có hiệu quả phát triển sản xuất kinh doanh; bảo đảm nguyên tắc thị trường đối với thị trường tài chính gắn với tăng cường quản lý, kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước và giám sát của xã hội; phát triển thị trường mua bán nợ, thị trường các công cụ phái sinh, cho thuê tài sản. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đểthị trường bất động sản vận hành thông suốt, phù hợp quy luật cung - cầu nhằm khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực từ đất đai và tài sản, kết cấu hạ tầng trên đất; ngăn ngừa đầu cơ, lãng phí. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành nghề. Tiếp tục đổi mới, phát triển mạnh mẽ và đồng bộ thị trường khoa học - công nghệ, thực hiện cơ chế thị trường và có chính sách hỗ trợ để khuyến khích các tổ chức, cá nhân, nhất là doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất kinh doanh.
- Phương hướng đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế:
Tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, chuẩn bị kỹ các điều kiện thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tham gia các điều ước quốc tế trongcác lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư,... Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết. Hoàn thiện thể chế để tận dụng cơ hội và phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh chấp quốc tế, nhất là tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế. Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc tế.
- Phương hướng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội:
Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng; tăng cường lãnh đạo việc thể chế hoá và việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; lãnh đạo việc bố trí cán bộ và lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện của đội ngũ cán bộ hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác tham mưu về kinh tế - xã hội ở các cấp, các ngành.
Nhà nước thể chế hoá nghị quyết của Đảng, xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, bảo đảm các loại thị trường ngày càng hoàn thiện và vận hành thông suốt, cạnh tranh công bằng, bình đẳng và kiểm soát độc quyền kinh doanh; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Đẩy mạnh cải cách hành chính. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại. Không hình sự hoá các quan hệ kinh tế, dân sự.
Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong hoạt động kinh tế của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và sự tham gia có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng và giám sát việc thực hiện thể chế kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội.
Phần thứ tư |
I. KHÁI QUÁT NỘI DUNG CHỦ YẾU CÁC VẤN ĐỀ VỀ VĂN HÓA, XÃ HỘI VÀ MÔI TRƯỜNG ĐÃ NÊU TRONG DỰ THẢO VĂN KIỆN
Văn hóa, xã hội, môi trường có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với quá trình phát triển bền vững đất nước, do vậy, trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, nội dung trình bày về những vấn đề này rất phong phú với dung lượng khá lớn.
Trong Dự thảo Báo cáo chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường được trình bày thành 5 vấn đề (trên tổng số 15 vấn đề): "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực"; "Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ"; "Phát triển văn hoá, xây dựng con người"; "Quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội"; "Tăng cường quản lý tài nguyên; bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu".
Trong từng vấn đề, Dự thảo Báo cáo chính trị đều nêu đánh giá tình hình thực hiện các đường lối, chủ trương của Đảng, chỉ rõ những thành quả nổi bật, những hạn chế, khuyết điểm chủ yếu trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; xác định phương hướng, nhiệm vụ cần thực hiện trong 5 năm tới.
Trong Dự thảo "Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020", vấn đề văn hoá, xã hội, môi trường được trình bày ở cả hai phần: "Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm2011 - 2015"; "Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020".
Trong Dự thảo Báo cáo kinh tế - xã hội, văn hoá, xã hội, môi trường được trình bày thành ba nội dung: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ; phát triển văn hoá, xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Dự thảo hai báo cáo tuy kết cấu và cách trình bày nội dung có khác nhau, phù hợp với tính chất, yêu cầu của từng báo cáo, song có quan hệ mật thiết, bổ sung cho nhau:
Dự thảo văn kiện đều tập trung đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; xác định phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng.
Hai dự thảo đều lấy Văn kiện Đại hội XI, các nghị quyết Trung ương nhiệm kỳ XI và thực tiễn đất nước 5 năm 2011 - 2015 làm cơ sở để xây dựng nội dung báo cáo.
Trong nhiệm kỳ XI, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết để lãnh đạo, chỉ đạo các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường:
- Về giáo dục và đào tạo: Hội nghị Trung ương 8 ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW "Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế".
- Về khoa học, công nghệ: Hội nghị Trung ương 6 ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW "Về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế".
- Về văn hoá: Hội nghị Trung ương 9 ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW "Về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước".
- Về xã hội: Hội nghị Trung ương 5 ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW "Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020" và Kết luận số 23-KL/TW "Một số vấn đề về tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020".
- Về môi trường: Hội nghị Trung ương 7 ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW "Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường".
Các nghị quyết Trung ương nêu trên phản ánh những bước phát triển trong nhận thức lý luận, chỉ đạo thực tiễn của Đảng, đều mới được ban hành, đang được triển khai và còn nguyên giá trị định hướng về tư tưởng, hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Dự thảo văn kiện Đại hội XII đã tiếp thu, chọn lọc những nội dung cốt lõi của các nghị quyết về văn hoá, xã hội, môi trường, nâng lên tầm văn kiện, đồng thời căn cứ vào yêu cầu, điều kiện cụ thể của đất nước để lựa chọn những nhiệm vụ, giải pháp cần thực hiện được trong 5 năm tới.
II. VỀ ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO; PHÁT TRIỂN VÀ ỨNG DỤNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
1.Tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ
Dự thảo văn kiện đã đánh giá tình hình như sau:
Về giáo dục và đào tạo
- Những kết quả nổi bật:
Các nghị quyết của Đảng về giáo dục, đào tạo được lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, đạt được những thành quả nhất định.
Quy mô, mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng, chất lượng được nâng lên.
Giáo dục, đào tạo được quan tâm đầu tư (bằng 20% tổng chi ngân sách nhà nước); cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện và có bước hiện đại hoá.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo có bước phát triển.
Công tác quản lý giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến.
- Những hạn chế, khuyết điểm:
Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp.
Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; công tác phân luồng và hướng nghiệp còn hạn chế.
Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất, còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành, chưa chú trọng giáo dục toàn diện.
Quản lý giáo dục và đào tạo có mặt còn yếu kém.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu.
Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả; cơ chế, chính sách cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp; cơ sở vật chất - kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Về khoa học, công nghệ
- Những kết quả nổi bật:
Tiềm lực khoa học, công nghệ được tăng cường (đầu tư ngân sách nhà nước cho khoa học, công nghệ tăng bình quân 16%/năm, đạt khoảng 2% tổng chi ngân sách nhà nước).
Hiệu quả hoạt động của khoa học, công nghệ được nâng lên, đóng góp tích cực trên nhiều lĩnh vực.
Quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ có đổi mới.
Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ có tiến bộ.
- Những hạn chế, khuyết điểm:
Tiềm lực khoa học, công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu; năng lực đội ngũ khoa học, công nghệ còn hạn chế, thiếu các nhà khoa học đầu ngành.
Đầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, sử dụng chưa hiệu quả; việc huy động nguồn lực của xã hội cho khoa học, công nghệ chưa được chú trọng.
Không hoàn thành mục tiêu xây dựng các trung tâm khoa học lớn; hiệu quả sử dụng các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và kết quả hoạt động của các khu công nghệ cao còn thấp.
Cơ chế quản lý khoa học, công nghệ chậm đổi mới, nhất là về tài chính, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài.
Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ còn thiếu định hướng chiến lược, hiệu quả hạn chế.
Đồng thời với việc đánh giá những ưu điểm, hạn chế trên từng lĩnh vực, Dự thảo văn kiện chú trọng đánh giá những mặt được, chưa được của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là nhu cầu phát triển nguồn nhân lực.
- Những mặt được:
Chất lượng đào tạo được nâng lên, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 50% vào năm 2015. Dạy nghề cho lao động nông thôn được quan tâm.
Khoa học, công nghệ đã có đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội trên các lĩnh vực. Khoa học xã hội và nhân văn góp phần quan trọng trong việc cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, công tác quản lý, điều hành của Nhà nước. Khoa học tự nhiên và một số ngành công nghệ mũi nhọn góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng, y tế, thông tin truyền thông; đóng góp tích cực vào việc tăng cường quốc phòng, an ninh. Phát triển thị trường khoa học, công nghệ, tăng cường hoạt động kết nối cung - cầu, giá trị giao dịch công nghệ tăng bình quân 13,5%/năm. Hình thành một số mô hình gắn kết hiệu quả viện, trường với doanh nghiệp trong hoạt động khoa học, công nghệ.
- Những mặt chưa được:
Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động.
Khoa học, công nghệ chưa thật sự gắn kết và trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Công tác quy hoạch, phát triển khoa học, công nghệ chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Chưa có giải pháp đủ mạnh để khuyến khích doanh nghiệp và thu hút đầu tư tư nhân cho nghiên cứu, đổi mới và ứng dụng khoa học, công nghệ. Thị trường khoa học, công nghệ phát triển còn chậm.
2. Về phương hướng, nhiệm vụ đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ gắn với phát triển nguồn nhân lực
Về tư tưởng chỉ đạo:
Tiếp tục khẳng định quan điểm: giáo dục, đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là đầu tư cho phát triển.
Đại hội XI của Đảng đã định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học, công nghệ và xác định khâu đột phá chiến lược: "Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ".
Kế thừa, cụ thể hoá và phát triển tư tưởng Đại hội XI, Dự thảo văn kiện xác định:
- Phát triển giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học và công nghệ, với quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực; chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn.
- Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học, công nghệ thật sự là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh; phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp.
Về phương hướng, nhiệm vụ:
Dự thảo văn kiện nêu những phương hướng chính, những nhiệm vụ chủ yếu nhằm thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo và phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ:
- Về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo:
Phấn đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học: đổi mới chương trình, nội dung giáo dục; đa dạng hoá nội dung, tài liệu học tập; đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học, hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo.
Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng.
Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Thực hiện chuẩn hoá đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo.
Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hộinâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý.
- Về phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ:
Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học và công nghệ; phát huy và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia; phấn đấu đến năm 2020 khoa học, công nghệ nước ta đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN, đến năm 2030 có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới.
Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta; hỗ trợ nhập khẩu công nghệ nguồn, công nghệ cao và kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu công nghệ.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học và công nghệ, nhất là cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính. Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính, tổ chức và hoạt động của tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ; xây dựng một số trung tâm nghiên cứu hiện đại. Tập trung đầu tư phát triển một số viện khoa học và công nghệ, trường đại học cấp quốc gia và một số khu công nghệ cao, vùng kinh tế trọng điểm theo mô hình tiên tiến của thế giới.
- Dự thảo văn kiện đặc biệt chú trọng các nhiệm vụ, giải pháp gắn kết giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ với phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ hiệu quả quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện ba đột phá chiến lược:
Với giáo dục, đào tạo:
Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước nói chung và cho từng ngành, từng lĩnh vực nói riêng, với những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực.
Tăng cường quản lý nhà nước về nguồn nhân lực, gắn kết cung - cầu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo điều kiện hỗ trợ dịch chuyển lao động và phân bố lao động hợp lý, hiệu quả.
Khuyến khích thành lập viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp khoa học, công nghệ trong nhà trường; thí điểm chuyển mô hình trường công lập sang cơ sở giáo dục do cộng đồng, doanh nghiệp quản lý, đầu tư.
Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục, chú trọng giáo dục hướng nghiệp, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp.
Với khoa học, công nghệ:
Xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức.
Các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội đều phải xây dựng trên cơ sở khoa học vững chắc, xác định rõ các giải pháp công nghệ hiện đại phù hợp nhằm nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.
Tăng cường liên kết giữa tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp; khuyến khích và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Phát triển, nâng cao năng lực hệ thống các tổ chức dịch vụ khoa học, công nghệ, phát triển thị trường khoa học và công nghệ, đồng thời hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ,... theo hướng hỗ trợ hiệu quả cho việc vận hành thị trường khoa học và công nghệ.
Có chính sách đào tạo, trọng dụng, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, nhất là các chuyên gia có nhiều đóng góp; khuyến khích các nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia hoạt động khoa học, công nghệ tại Việt Nam.
III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM
1. Tình hình phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam
Đối chiếu với mục tiêu, nhiệm vụ "Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hoá, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế" được nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và nhiệm vụ "Chăm lo phát triển văn hoá" được xác định trong Báo cáo chính trị trình Đại hội XI của Đảng, Dự thảo văn kiện đã đánh giá tình hình thực hiện như sau:
- Những kết quả nổi bật:
Thực hiện nhiệm vụ xây dựng con người đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế có bước chuyển biến quan trọng, bước đầu hình thành những giá trị mới về con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn lên.
Nhiều giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc và của từng vùng, miền được kế thừa; nhiều di sản văn hoá được bảo tồn, tôn tạo.
Việc xây dựng môi trường văn hoá được chú trọng hơn; phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" đã khơi dậy được nhiều giá trị nhân văn trong cộng đồng.
Văn học, nghệ thuật có bước phát triển; truyền thông đại chúng phát triển nhanh cả về loại hình, quy mô, lực lượng, phương tiện kỹ thuật và ảnh hưởng xã hội.
Xã hội hoá văn hoá ngày càng mở rộng; đời sống văn hoá của nhân dân được cải thiện.
Công tác quản lý nhà nước về văn hoá được tăng cường; hệ thống thể chế, thiết chế văn hoá từng bước được tăng cường.
Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hoá có nhiều khởi sắc.
- Những hạn chế, yếu kém:
Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chưa đạt yêu cầu; so với những thành quả trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hoá chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hoá lành mạnh.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi.
Môi trường văn hoá còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng.
Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá đạt hiệu quả chưa cao; hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực, quản lý không theo kịp sự phát triển, một số cơ quan truyền thông có biểu hiện thương mại hoá, xa rời tôn chỉ, mục đích; nhiều sản phẩm văn hoá, nghệ thuật chất lượng thấp; thể thao thành tích cao phát triển còn chậm.
Hệ thống thiết chế văn hoá và cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hoạt động văn hoá còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp; đời sống văn hoá tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hoá giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn.
Quản lý nhà nước về văn hoá, nghệ thuật, lễ hội, tôn giáo, tín ngưỡng, thông tin, báo chí, nhất là Internet còn nhiều bất cập.
Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hoá nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hoá của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ.
2. Về phương hướng, nhiệm vụ
Về tư tưởng chỉ đạo:
Kế thừa, phát triển những quan điểm chỉ đạo và những định hướng lớn của Đảng được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về "Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" và những nội dung Văn kiện Đại hội XI của Đảng về văn hoá, Hội nghị Trung ương 9 khoá XI đã ban hành Nghị quyết về "Xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước". Nghị quyết nêu 5 quan điểm chỉ đạo, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận văn hoá của Đảng, chỉ rõ quan hệ biện chứng giữa văn hoá, con người; xác định đầy đủ hơn những đặc trưng của văn hoá và đặc tính của con người Việt Nam trong thời kỳ mới; nhấn mạnh sự cần thiết phải gắn kết văn hoá với chính trị, kinh tế, xã hội; đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và trách nhiệm của các đoàn thể chính trị - xã hội, của nhân dân, đặc biệt của đội ngũ trí thức, đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hoá, con người.
Khái quát những quan điểm của Nghị quyết Trung ương 9 khoá XI, xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ trong 5 năm tới, Dự thảo văn kiện trình Đại hội XII nhấn mạnh tư tưởng chỉ đạo: các cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện có kết quả mục tiêu: Xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Về nhiệm vụ, giải pháp:
Trong Báo cáo chính trị trình Đại hội XI, Đảng xác định bốn nhiệm vụ: (1) Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng; (2) Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá truyền thống, cách mạng; (3) Phát triển hệ thống thông tin đại chúng; (4) Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hoá.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khoá XI nêu sáu nhiệm vụ: (1) Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện; (2) Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh; (3) Xây dựng văn hoá trong chính trị, kinh tế; (4) Nâng caochất lượng, hiệu quả hoạt động văn hoá; (5) Phát triển công nghiệp văn hoá đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hoá; (6) Chủ động hội nhập quốc tế về văn hoá. Nghị quyết đề ra bốn nhóm giải pháp: (1) Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hoá; (2) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hoá; (3) Xây dựng tộc" và những nội dung Văn kiện Đại hội XI của Đảng về văn hoá, Hội nghị Trung ương 9 khoá XI đã ban hành Nghị quyết về "Xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước". Nghị quyết nêu 5 quan điểm chỉ đạo, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận văn hoá của Đảng, chỉ rõ quan hệ biện chứng giữa văn hoá, con người; xác định đầy đủ hơn những đặc trưng của văn hoá và đặc tính của con người Việt Nam trong thời kỳ mới; nhấn mạnh sự cần thiết phải gắn kết văn hoá với chính trị, kinh tế, xã hội; đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và trách nhiệm của các đoàn thể chính trị - xã hội, của nhân dân, đặc biệt của đội ngũ trí thức, đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hoá, con người.
Khái quát những quan điểm của Nghị quyết Trung ương 9 khoá XI, xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ trong 5 năm tới, Dự thảo văn kiện trình Đại hội XII nhấn mạnh tư tưởng chỉ đạo: các cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện có kết quả mục tiêu: Xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Về nhiệm vụ, giải pháp:
Trong Báo cáo chính trị trình Đại hội XI, Đảng xác định bốn nhiệm vụ: (1) Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng; (2) Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá truyền thống, cách mạng; (3) Phát triển hệ thống thông tin đại chúng; (4) Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hoá.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khoá XI nêu sáu nhiệm vụ: (1) Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện; (2) Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh; (3) Xây dựng văn hoá trong chính trị, kinh tế; (4) Nâng caochất lượng, hiệu quả hoạt động văn hoá; (5) Phát triển công nghiệp văn hoá đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hoá; (6) Chủ động hội nhập quốc tế về văn hoá. Nghị quyết đề ra bốn nhóm giải pháp: (1) Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hoá; (2) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hoá; (3) Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá; (4) Tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hoá.
Xuất phát từ yêu cầu, điều kiện cụ thể của đất nước trong 5 năm tới, Dự thảo văn kiện lựa chọn, nêu khái quát định hướng bảy nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu:
Một là, đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là:
- Đúc kết, từng bước xây dựng trong thực tế các chuẩn mực giá trị văn hoá và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân.
- Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật; làm cho mọi người Việt Nam hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hoá dân tộc; khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn.
- Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hoá, làm tha hoá con người; có giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam.
Hai là, gắn xây dựng con người với xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trong đó chú trọng:
- Xây dựng môi trường văn hoá, đời sống văn hoá lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống.
- Phát huy vai trò văn hoá trong gia đình, nhà trường, cộng đồng; thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh, nhân rộng các mô hình gia đình văn hoá tiêu biểu; xây dựng mỗi trường học thật sự là một trung tâm văn hoá giáo dục, rèn luyện con người; xây dựng đời sống văn hoá ở địa bàn dân cư, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp.
- Thường xuyên quan tâm xây dựng nếp sống văn hoá tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hoá, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá".
- Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội.
- Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hoá tôn giáo, tín ngưỡng.
Ba là, đề cao nhiệm vụ xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế:
- Chú trọng chăm lo xây dựng văn hoá trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
- Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hoá trong kinh tế; xây dựng văn hoá doanh nghiệp, văn hoá doanh nhân với ý thức thượng tôn pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh vì sự phát triển bền vững của đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hoá:
- Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc; khích lệ sáng tạo các giá trị văn hoá mới, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; giải quyết hợp lý, hài hoà giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hoá với phát triển kinh tế - xã hội.
- Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, khuyến khích tự do sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân; đổi mới phương thức hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật.
- Quy hoạch, sắp xếp hợp lý, phát triển lành mạnh, quản lý hiệu quả hệ thống báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình, các loại hình thông tin trên Internet đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam.
- Giữ gìn, phát triển, phát huy giá trị văn hoá của đồng bào các dân tộc thiểu số; tôn trọng, phát huy những mặt, những giá trị tích cực, tiến bộ của văn hoá tôn giáo.
Năm là, phát triển công nghiệp văn hoá đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hoá:
- Có cơ chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hoá.
- Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp văn hoá, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các nguồn lực xã hội để phát triển.
- Đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hoá lành mạnh; đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hoá; tăng cường quảng bá văn hoá Việt Nam; nâng cao ý thức thực thi các quy định pháp luật về quyền tác giả và các quyền liên quan trong toàn xã hội.
Sáu là, chủ động hội nhập quốc tế về văn hoá, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại:
- Chủ động mở rộng hợp tác văn hoá với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hoá đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hoá đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, làm phong phú thêm văn hoá dân tộc.
- Chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hoá dân tộc; hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hoá về văn hoá.
Bảy là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực văn hoá:
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm để văn hoá, văn học - nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo trên cơ sở phát huy trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo.
- Đẩy nhanh việc thể chế hoá, cụ thể hoá các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hoá; hoàn thiện các thiết chế văn hoá và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hoá, về quyền tác giả và các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam.
- Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hoá, coi trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hoá, cán bộ làm công tác khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở.
- Mức đầu tư của Nhà nước cho văn hoá phải tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế; đẩy mạnh xã hội hoá nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn hoá, xây dựng con người.
IV. VỀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI, THỰC HIỆN TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Chăm lo nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là tư tưởng nhất quán của Đảng ta. Trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta nhấn mạnh: "Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách". Trong 30 năm đổi mới, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết để lãnh đạo giải quyết các vấn đề xã hội, đặc biệt chăm lo bảo đảm an sinh xã hội trong mọi hoàn cảnh, ngay cả khi đất nước đứng trước nhiều khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế toàn cầu. Đây là một thành quả quan trọng, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta. Tuy nhiên, những định hướng về quản lý phát triển xã hội được nêu trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng chậm được làm rõ về mặt lý luận và thể chế hoá, cụ thể hoá về mặt nhà nước, do vậy dẫn đến những lúng túng trong quá trình thực hiện.
Nhận thức sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn đề xã hội, Dự thảo văn kiện trình bày nội dung này thành một vấn đề riêng, trong đó tiếp tục hoàn thiện một bước những định hướng về thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đồng thời trình bày rõ hơn một số định hướng về quản lý phát triển xã hội..
1. Đánh giá tình hình
Dự thảo văn kiện đã đánh giá tình hình như sau:
Về quản lý phát triển xã hội
- Những kết quả nổi bật:
Hệ thống luật pháp và chính sách được bổ sung nhằm điều tiết các quan hệ xã hội.
Chính sách dân tộc được quan tâm; tự do tôn giáo, tín ngưỡng được bảo đảm.
Các cơ quan báo chí, xuất bản làm tốt hơn nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền.
Những ưu điểm nói trên đã góp phần trực tiếp vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm sự đồng thuận và trật tự, an toàn xã hội.
- Những hạn chế, yếu kém:
Quản lý phát triển xã hội còn nhiều hạn chế, khuyết điểm; việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả; mục tiêu xây dựng quan hệ hài hòa giữa các lĩnh vực, ngành nghề, vùng, miền chưa đạt yêu cầu.
Chưa có chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả đối với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân hoá giàu - nghèo, phân tầng xã hội, kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh con người.
Quản lý phát triển xã hội bền vững chưa được nghiên cứu đầy đủ, hệ thống pháp luật, chính sách chưa đồng bộ, thiếu nhất quán, quản lý thiếu tính tổng thể, liên ngành, liên vùng, do vậy sự phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền thiếu tính liên kết.
Về thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
- Những thành tựu nổi bật:
Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được những kết quả tích cực; an sinh xã hội được bảo đảm, phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; đã hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ.
Trong bối cảnh kinh tế có nhiều khó khăn, đã tăng thêm ngân sách nhà nước và huy động các nguồn lực để thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội, ưu tiên vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai và đồng bào dân tộc thiểu số.
Mở rộng đối tượng thụ hưởng, nâng mức hỗ trợ và thực hiện đồng bộ nhiều chính sách đối với người có công; giảm nghèo, trợ giúp xã hội, tạo việc làm, đào tạo nghề, hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ tín dụng cho học sinh, sinh viên nghèo đạt những kết quả tích cực: mức sống của các gia đình người có công được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2%/năm, thị trường lao động có bước phát triển (5 năm đã tạo việc làm cho khoảng 7,8 triệu người).
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng; chất lượng công tác y tế dự phòng, khám, chữa bệnh được nâng lên, không để dịch bệnh lớn xảy ra; tuổi thọ trung bình tăng, đạt 73,5 tuổi vào năm 2015.
Công tác chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi; bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; công tác gia đình, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ đã đạt được kết quả tích cực.
- Những hạn chế, yếu kém:
Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội nhiều mặt còn hạn chế; xã hội hoá còn chậm và chưa có cơ chế, chính sách đủ mạnh để huy động được nhiều nguồn lực đầu tư cho các lĩnh vực xã hội; đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn.
Thị trường lao động chưa thật thông suốt, dịch chuyển lao động còn khó khăn; tỷ trọng lao động trong nông nghiệp còn lớn, số người thiếu việc làm và việc làm không ổn định còn nhiều, nhất là ở khu vực nông thôn; một bộ phận sinh viên sau tốt nghiệp còn khó tìm được việc làm.
Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao, một số chính sách về an sinh xã hội, giảm nghèo còn chồng chéo, kém hiệu quả, chưa khuyến khích người nghèo vươn lên thoát nghèo; tỷ lệ hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa, nhất là trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao (có huyện, xã lên đến 50%); khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, các nhóm dân cư còn lớn.
Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân nhiều mặt còn hạn chế; chất lượng khám, chữa bệnh, công tác y tế dự phòng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là tuyến cơ sở; tuổi thọ bình quân tăng nhưng chất lượng cuộc sống chưa cao.
2. Về phương hướng, nhiệm vụ
Về tư tưởng chỉ đạo
- Đối với quản lý phát triển xã hội:
Đại hội XI của Đảng đã đề ra những định hướng quan trọng về quản lý phát triển xã hội. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) định hướng: Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 nhấn mạnh: Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hoá giàu - nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị. Báo cáo chính trị trình Đại hội XI xác định: Phát triển kinh tế - xã hội hài hoà giữa các vùng, đô thị và nông thôn; đấu tranh phòng, chống có hiệu quả tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông,...
Phát triển và cụ thể hoá tư tưởng Đại hội XI vào điều kiện 5 năm tới, Dự thảo văn kiện trình Đại hội XII nêu rõ: (1) Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; (2) Xây dựng, thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội; (3) Có các giải pháp quản lý hiệu quả để giải quyết hài hoà các quan hệ xã hội, ngăn chặn, giải quyết kịp thời những bức xúc, mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột trong xã hội.
- Đối với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội:
Phát triển và cụ thể hoá tư tưởng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XI, Nghị quyết Trung ương 5 khoá XI về "Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020" đã đưa ra 5quan điểm chỉ đạo: (1) Xác định vị trí, tầm quan trọng của việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người có công, bảo đảm an sinh xã hội và trách nhiệm của Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội; (2) Những nguyên tắc trong thực hiện chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội; (3) Định hướng phát triển hệ thống an sinh xã hội; (4) Xác định vai trò chủ đạo và trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội; (5) Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực an sinh xã hội.
Khái quát quan điểm, chủ trương của Nghị quyết Trung ương 5 khoá XI, Dự thảo văn kiện xác định: (1) Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới; (2) Mọi người dân đều có cơ hội, điều kiện phát triển toàn diện; (3) Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công trên cơ sở huy động mọi nguồn lực xã hội kết hợp với nguồn lực của Nhà nước, bảo đảm người có công có mức sống từ trung bình trở lên.
Về nhiệm vụ, giải pháp
Nhiệm vụ, giải pháp về quản lý phát triển xã hội:
Đây là vấn đề lớn và mới, cần triển khai từng bước, vững chắc. Dự thảo văn kiện xác định một số định hướng chủ yếu:
- Trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hoá giàu - nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững.
- Thực hiện các giải pháp, chính sách và quản lý để khắc phục từng bước sự mất cân đối về phát triển đối với từng lĩnh vực, từng vùng, bảo đảm sự hài hoà cả trong phát triển, hưởng thụ; bảo đảm cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề hợp lý.
- Kịp thời kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội.
- Đẩy mạnh các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; giảm thiểu tai nạn giao thông.
Nhiệm vụ, giải pháp về thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội:
Đây là lĩnh vực đã đạt được nhiều thành quả và tích lũy được nhiều kinh nghiệm tốt, cần tiếp tục đẩy mạnh trong 5 năm tới. Dự thảo văn kiện tập trung trình bày ba nhóm vấn đề:
- Giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động:
Tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập, bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động.
Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng.
Khuyến khích đầu tư xã hội tạo ra nhiều việc làm, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý; điều chỉnh chính sách dạy nghề, gắn đào tạo với sử dụng; điều chỉnh chính sách xuất khẩu lao động hợp lý; hoàn thiện và thực hiện chính sách bảo hộ lao động,...
- Bảo đảm an sinh xã hội:
Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho những người yếu thế, dễ tổn thương hoặc gặp rủi ro trong cuộc sống.
Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp..., chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân.
Đổi mới chính sách giảm nghèo theo hướng tập trung, hiệu quả và tiếp cận phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhằm bảo đảm an sinh xã hội cơ bản và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Tổ chức tốt hơn việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản thiết yếu; thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng chính sách, người nghèo, nhân dân sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; phát triển nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp, khu chế xuất và sinh viên,...
Phát triển đa dạng các hình thức từ thiện, đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia giúp đỡ những người yếu thế.
- Coi trọng chăm sóc sức khoẻ nhân dân, công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em; xây dựng gia đình hạnh phúc:
Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình, chế độ thai sản, nghỉ dưỡng, khám, chữa bệnh, bình đẳng giới; thực hiện tốt chiến lược dân số, gia đình, chương trình hành động vì trẻ em...; đầu tư nâng cao chất lượng dân số, chỉ số phát triển con người, bảo đảm cân bằng tỷ lệ giới tính khi sinh và quyền trẻ em.
Huy động các nguồn lực, tiếp tục xây dựng, phát triển hệ thống bệnh viện, trạm y tế, phòng khám bệnh, hệ thống y tế dự phòng và các dịch vụ y tế hiện đại; phát triển y học dân tộc, khuyến khích sản xuất và chữa bệnh bằng thuốc nam.
Tiếp tục bảo đảm công bằng, giảm chênh lệch mới trong tiếp cận chính sách chăm sóc sức khoẻ nhân dân giữa các địa bàn, các nhóm đối tượng; ưu tiên ngân sách nhà nước dành cho y tế đầu tư tập trung cho các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng ven biển và hải đảo.
Có lộ trình khắc phục tình trạng quá tải tại các bệnh viện lớn ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn.
Tiếp tục thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế cho toàn dân và từng bước đổi mới, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế.
Có chính sách hợp lý trong đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và đãi ngộ thoả đáng đối với đội ngũ cán bộ y tế.
Tiếp tục thực hiện chiến lược phát triển con người, chính sách chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em.
Phát triển thể dục, thể thao toàn dân.
V. VỀ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN, BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG, PHÒNG, CHỐNG THIÊN TAI, ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Nhận thức về tầm quan trọng của việc quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu là một quá trình. Trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng, việc xây dựng cơ sở khoa học cho việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, phòng tránh, giảm nhẹ hậu quả thiên tai được giao thành trách nhiệm của khoa học tự nhiên và chính sách bảo vệ môi trường được gắn với các chính sách xã hội. Đến Đại hội X, lần đầu tiên trong Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2006 - 2010 trình Đại hội đã đưa ra chỉ tiêu về môi trường (tỷ lệ che phủ rừng; tỷ lệ dân cư được sử dụng nước sạch; chỉ tiêu xử lý chất thải,...) và "tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên" được xác định là một trong sáu nhiệm vụ thuộc "Định hướng phát triển ngành, lĩnh vực và vùng".
Bước vào thế kỷ XXI, khủng hoảng tài nguyên, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu trở thành vấn nạn mang tính toàn cầu. Tháng 9-2000, Chính phủ nước ta đã cam kết thực hiện Tuyên bố Thiên niên kỷ (còn gọi làChương trình nghị sự 21), trong đó bảo đảm bền vững về môi trường là một trong tám mục tiêu cụ thể. Đại hội XI của Đảng đã đặt vấn đề "Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai" thành một định hướng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội2011 - 2020, là một trong những nhiệm vụ quan trọng của kế hoạch 5 năm 2011 - 2015 gắn với phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức. Trước nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường và những diễn biến phức tạp của biến đổi khí hậu, Hội nghị Trung ương 7 khoá XI đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW "Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường".
Nhận rõ tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu đối với sự nghiệp phát triển bền vững đất nước trong những năm sắp tới, Dự thảo văn kiện đã trình bày nội dung này thành một vấn đề riêng.
1. Về đánh giá tình hình
Dự thảo văn kiện đã đánh giá tình hình như sau:
- Những kết quả nổi bật:
Nhận thức về tầm quan trọng của tài nguyên, khai thác và quản lý tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu được nâng lên.
Nhà nước đã xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quản lý các lĩnh vực này; công tác kiểm tra, thanh tra việc thực thi và xử lý vi phạm được coi trọng; đã thành lập các cơ quan nghiên cứu và dự báo, quản lý rủi ro.
Việc quản lý, sử dụng đất đai, nguồn nước, khoáng sản chặt chẽ và hiệu quả hơn; các biện pháp bảo vệ môi trường, phòng ngừa và xử lý cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng được tích cực thực hiện; nhiều dự án ứng phó với biến đổi khí hậu kết hợp với phòng, chống thiên tai được triển khai.
Hợp tác quốc tế về quản lý tài nguyên, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai được đẩy mạnh; đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế về các lĩnh vực này.
- Những hạn chế, yếu kém:
Quản lý nhà nước về tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu nhiều mặt còn hạn chế; pháp luật, chính sách thiếu đồng bộ; thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm chưa nghiêm; công tác điều tra cơ bản, quy hoạch, dự báo chưa đáp ứng yêu cầu; việc giao quyền quản lý, khai thác, sử dụng đất đai, khoáng sản, rừng, nguồn nước,... chưa phù hợp với kinh tế thị trường, hiệu quả chưa cao.
Tài nguyên chưa được quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả và bền vững, một số loại tài nguyên bị khai thác quá mức dẫn tới suy thoái, cạn kiệt.
Ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng, có nơi nghiêm trọng; việc khắc phục hậu quả về ô nhiễm môi trường do chiến tranh để lại còn nhiều khó khăn; đa dạng sinh học suy giảm, nguy cơ mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trên diện rộng.
Việc ứng phó với biến đổi khí hậu còn bị động, lúng túng; tình trạng ngập lụt ở một số thành phố lớn chậm được khắc phục; sạt lở ven biển, ven sông và xâm nhập mặn diễn biến ngày càng phức tạp...
2. Về phương hướng, nhiệm vụ
Về tư tưởng chỉ đạo
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khoá XI "Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường" xác định năm quan điểm chỉ đạo. Nghị quyết nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường đối với sự phát triển bền vững đất nước và trách nhiệm của Đảng, của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội; xác định những nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết các vấn đề biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; tư tưởng chỉ đạo đối với ứng phó với biến đổi khí hậu, với quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên, với bảo vệ môi trường.
Lựa chọn, khái quát các quan điểm, chủ trương của Nghị quyết Trung ương 7 khoá XI phù hợp với hoàn cảnh 5 năm tới, Dự thảo văn kiện xác định:
Tăng cường công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững theo hướng bảo đảm tính tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn.
Tăng cường quản lý nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, phòng, chống thiên tai, bảo vệ môi trường; đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, các lực lượng vũ trang, phát huy vai trò của cộng đồng, của doanh nghiệp.
Tài nguyên là tài sản quốc gia, nguồn lực quan trọng của đất nước, phải được đánh giá đầy đủ, hạch toán trong nền kinh tế, được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả và bền vững, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; chú trọng sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, vật liệu mới.
Cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của người dân; ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên do chủ quan con người, nhất là do các dự án phát triển kinh tế gây ra; hạn chế, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng hủy hoại, làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị; thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản; bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường tự nhiên với môi trường sống ở các khu công nghiệp, đô thị, dân cư.
Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả và bảo vệ tài nguyên; tăng cường phổ biến pháp luật và tuyên truyền trong xã hội về bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên và ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu; tích cực hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Về nhiệm vụ, giải pháp
Dự thảo văn kiện xác định mục tiêu: Đến năm 2020, có bước chuyển biến cơ bản trong khai thác, sử dụng tài nguyên theo hướng hợp lý, hiệu quả và bền vững, kiềm chế mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học nhằm bảo đảm chất lượng môi trường sống, duy trì cân bằng sinh thái, hướng tới nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; về cơ bản, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai, giảm phát thải khí nhà kính.
Dự thảo văn kiện xác định các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu:
- Nhiệm vụ, giải pháp về quản lý tài nguyên:
Đẩy mạnh điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, giá trị kinh tế, thực trạng và xu hướng diễn biến của các nguồn tài nguyên quốc gia, đặc biệt là tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên biển.
Từng bước xác định, đánh giá các giá trị, thiết lập tài khoản, hạch toán trong nền kinh tế đối với các loại tài nguyên quốc gia.
Quy hoạch, quản lý và khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia.
Hạn chế tối đa, từng bước tiến tới chấm dứt xuất khẩu khoáng sản thô và chỉ qua chế biến sơ, thúc đẩy chế biến sâu; đối với loại khoáng sản chiến lược đặc thù như than, dầu khí,... cần có chính sách cụ thể, cân đối giữa nhập khẩu và xuất khẩu.
Đổi mới công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai; thúc đẩy sử dụng đất tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả; kết hợp bảo vệ diện tích, độ phì nhiêu của đất canh tác nông nghiệp.
Quy hoạch khai thác, bảo vệ nguồn nước, tăng cường quản lý nguồn nước theo lưu vực sông; chủ động hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ nguồn nước xuyên quốc gia.
Kiểm soát các hoạt động khai thác; đấu tranh, ngăn chặn tình trạng đánh bắt mang tính hủy diệt nhằm bảo vệ nguồn lợi thủy sản, đặc biệt là vùng gần bờ.
Thúc đẩy phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu mới thay thế các nguồn tài nguyên truyền thống.
- Nhiệm vụ, giải pháp về bảo vệ môi trường:
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi trường, ngăn chặn, xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt tình trạng gây ô nhiễm môi trường; tăng cường phòng ngừa và kiểm soát chặt chẽ các nguồn gây ô nhiễm môi trường.
Ngăn chặn và từng bước khắc phục tình trạng xuống cấp của môi trường tự nhiên; hạn chế tiến tới khắc phục căn bản tình trạng ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, khu đô thị, làng nghề, các lưu vực sông, không để phát sinh thêm những cơ sở gây ô nhiễm môi trường; tập trung xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Kiểm soát chất lượng không khí ở khu vực đô thị có mật độ dân cư cao; thực hiện quy chuẩn, tiêu chuẩn phát thải và công nghệ theo lộ trình phù hợp.
Tăng cường bảo vệ và phát triển rừng, nhất là rừng phòng hộ ven biển, rừng đầu nguồn, rừng đặc dụng.
Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.
Đẩy mạnh xã hội hoá cùng với việc bố trí nguồn lực từ ngân sách nhà nước đầu tư cho các công trình trọng điểm phục hồi môi trường dân sinh.
- Nhiệm vụ, giải pháp về phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu:
Chủ động xây dựng, triển khai và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chương trình, kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai cho từng giai đoạn.
Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu và tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ.
Đầu tư thích đáng cho các công trình trọng điểm quốc gia, các chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm chủ động phòng, chống, hạn chế tác động của triều cường, ngập lụt, xâm nhập mặn do nước biển dâng đối với vùng ven biển, nhất là vùng đồng bằng Sông Cửu Long, đồng bằng Sông Hồng, duyên hải miền Trung, trước hết là khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Cà Mau và các thành phố ven biển khác.
Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm mức phát thải khí nhà kính.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: